Tôi có cơ duyên thường được gặp gỡ ông vào những năm trước khi ông chuyển về sinh sống ở quê Bình Định. Ngày ấy gia đình ông ở căn phòng tầng hai ngôi nhà cổ phố Hàng Quạt. Còn tôi đương làm phóng viên cho một tờ báo ở phố Hàng Gai. Hễ khi rảnh việc, tôi lại men theo ngõ nhỏ xuyên tắt từ phố Hàng Gai sang phố Hàng Quạt để hầu chuyện ông.Nói là hầu chuyện, nhưng thực ra có khi cả buổi ngồi lặng lẽ uống trà với ông. Ông vốn không phải là người cao đàm khoát luận gì, tính ông ưa lặng lẽ. Hễ bốc lên, ông nói một thôi một hồi rồi lại lặng thinh. Có khi ông lai rủ rỉ rù rì đọc thơ khúc trầm khúc bổng. Con người ông không qúa vồ vập, nhưng lại không phải là người lạnh nhạt. Ở ông luôn toát lên vẻ dễ gần, dễ thân thuộc. Ông là người cần cù chịu khó. Hầu như chưa lần nào đến tôi thấy ông ngồi yên. Khi thì thấy ông ngồi viết ngồi đọc, khi thấy ông xếp sắp mấy tập vở đang viết dở, khi thấy ông đang khâu vá vật gì đó, khi thấy ông đang say mê tưới tắm cho khóm hồng ngoài ban công. Cái ban công nho nhỏ mà hình như đã hỏng cả tay vịn lan can, nhưng hoa hồng thì luôn nở rất đẹp. Tôi biết ông yêu hoa hồng lắm. Loài hoa kiêu sa ấy ai chẳng mê, nhất là ông lại là thi sỹ, chẳng thế mà năm 1968, ông có tập thơ với tên sách “ Lẵng hoa hồng”.
Với tôi, thơ của ông là một thứ ma mị. Ngay từ thưở thập thững vào nghiệp văn chương, tôi đã chép trong sổ tay nhiều bài thơ của ông . Ngày đó thơ của ông không được phổ biến rộng. Nhưng những bài “Lại về tỉnh nhỏ”, “Phù Ly”, nhất là bài “Bến My Lăng” thì ám ảnh tôi vô cùng. Tôi hình dung cái bến sông với con đò âm âm u u, như trôi trong cô tịch,
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Tôi đã tự hỏi không biết nhà thơ là ông lão lái thuyền kia? Hay là chàng kỵ mã áo ngọc lưu ly nhúng đầy trăng? Hay là ngọn gió đìu hiu tịch mịch? Tôi biết đó là tâm trạng cô đơn vô cùng của ông giữa cảnh đời vừa thực vừa rất nhiều chất liêu trai.