Nhờ có chữ Nho, dân tộc ta đã ra khỏi thời kỳ tiền sử, tiến sang thời đại văn minh có chữ viết để ghi sử sách, tiếp thu nền văn hóa Trung Hoa, tổ chức hệ thống chính quyền, xã hội... theo mô hình mới trong mấy nghìn năm.
Tuy vậy chữ Nho có nhược điểm không ghi âm được tiếng Việt, không thể dùng để nói, chỉ dùng để viết, không phản ảnh được ngôn ngữ bình dân, vả lại chỉ tầng lớp quan lại và trí thức mới biết chữ Nho. Vì vậy phạm vi sử dụng chữ Nho rất hạn hẹp.
Để sửa nhược điểm không ghi được tiếng Việt của chữ Nho, sau khi nước nhà giành độc lập, vào khoảng thế kỷ XII tổ tiên ta đã làm một thử nghiệm táo bạo về ngôn ngữ: sáng tạo chữ Nôm có yếu tố biểu âm và biểu ý, ghi được âm tiếng Việt.
Chữ Nôm mượn tự hình chữ Hán để ghi tiếng Việt, vì thế phải biết chữ Hán mới học được chữ Nôm, do đó phụ thuộc Hán ngữ và khó phổ cập. Hơn nữa các triều đại phong kiến ở ta (trừ triều đại nhà Hồ và nhà Tây Sơn) do mù quáng sùng bái chữ Hán mà coi thường và cản trở phát triển chữ Nôm, không công nhận là chữ viết chính thức, chỉ coi là chữ viết của dân thường, vì thế chữ Nôm chưa được hoàn thiện, âm đọc chưa chính xác.
Tuy vậy, do chữ Nôm thể hiện ý thức độc lập dân tộc, lại có thể thể hiện được lời ăn tiếng nói và nỗi lòng của tầng lớp bình dân, cho nên từ thế kỷ XV nhiều nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v... đã hăng hái dùng chữ Nôm sáng tác, tạo dựng được một nền văn học chữ Nôm có bản sắc dân tộc, trội hơn hẳn văn học chữ Nho, mở ra một thời đại phát triển rực rỡ nền văn minh Việt.