Lê Hoài Nguyên
I- Từ Văn học lưu
vong đến Văn chương hải ngoại
Tháng 10 năm
1981, trong bài giới thiệu cuộc hội thảo của mười tác giả, tạp chí “Nhân Chứng”
còn rụt rè nhận xét: “Tạm gọi là một nền văn học lưu vong cũng đã hình
thành”.
Thái Tú Hạp thì băn khoăn:” Sáu năm, khoảng thời gian
chưa đủ để vơi dịu những nỗi đau đớn thoát lìa quê hương, nhận phận kiếp lưu
đày với muôn vàn cay đắng tủi nhục. Nhìn lại sáu năm văn học Việt Nam nơi xứ
người quả là một vấn đề quá lớn, có hơi vội vã chăng?”.
Uông Hồ Vệ thì
đầy thất vọng trong một cái tít : “ Bộ môn văn: con dao cùn trong tay những
người cầm bút lưu đày”.
Bảy năm sau,
1988, Bùi Vĩnh Phúc trên tạp chí “Văn học” số 30 đã có thể viết rằng : “ Dòng
văn chương ngoài nước của người Việt sau mười ba năm xa xứ có khá nhiều sinh
động. Nó cho ta hình ảnh của một dòng sông lớn tách ra làm nhiều nhánh.” Tuy
nhiên ông vẫn phải đặt một câu hỏi khi vào bài:
“ Có hay không có một dòng văn học của những người
Việt tứ xứ sau 30-4-1975?”.
Chỉ hai năm sau
nữa, Nguyễn Hưng Quốc trên Tạp chí Văn học số 47 và 48, Nguyễn Hữu Nghĩa và
Nguyễn Mộng Giác trên Tạp chí Văn Xã số 3 đã không cần phải đắn đo để mỗi người
làm một bản sơ tính 15 năm văn học lưu vong theo cách riêng của mình.
Ở thời điểm này
bộ mặt văn học hải ngoại đã khác xa với tinh thần khởi điểm ban đầu của nó.
Bùi Vĩnh Phúc
cảm thấy cần phải dùng “dòng văn chương ngoài nước” thay cho “ dòng văn chương
lưu vong” hoặc “ văn chương hải ngoại”. Ông viết :
“ Khi nói ngoài nước, ta vẫn cảm thấy gần gũi đối với
đất nước với con người Việt hơn là khi nói đến quốc ngoại”. Sự cảm thông, sự rung
động này có lẽ là do ảnh hưởng khác biệt đối với thâm thân của ta hai tầng ý
nghĩa thuần Việt và Hán Việt”.
II- Các thời kỳ
phát triển
Sự kiện
30-4-1975 đối với văn học Việt Nam là một cái mốc đặc biệt quan trọng. Nó tạo
ra một nền văn học thống nhất trong cả nước nhưng đồng thời chấm dứt nền văn
học miền Nam Cộng hòa và khởi đầu một nền văn học lưu vong ngoài nước.
Nền văn học lưu
vong ấy ban đầu kế thừa tư tưởng chính trị và kỹ thuật văn chương của văn học
Sài Gòn trước 1975. Nó phản ánh cuộc sống của một bộ phận người Việt trong hoàn
cảnh éo le đầy thương cảm ở bên ngoài bị chia cắt với đất nước. Nhưng thời gian
và cuộc sống ở các nước phát triển đã cho nó những màu sắc mới. Tính lưu vong
khởi thủy sẽ mất dần đi nhường chỗ cho tính chất hợp lưu với văn học của các
nước cư trú và tính hồi cố trở về hội nhập với quê hương đất nước.
Có thể phân
định tiến trình ấy qua các thời kỳ như sau:
1- Thời kỳ hình
thành, khai phá : 1975-1980
Các cây bút di
tản hoặc vượt biên chưa thoát khỏi trạng thái hoang mang tuyệt vọng. Mưu sinh
là một gánh nặng, họ còn chờ đợi sự cứu trợ về nhà ở, công ăn việc làm… Một số
người viết hoàn toàn im lặng.Một vài người thi thoảng mới cầm bút. Một số khởi
định viết rồi cũng im lặng nốt. Phần văn học trong mấy tờ báo di tản lúc đó vắng
bóng các tên tuổi cũ, hoặc có thì cũng ký bằng tên khác. Xuân Vũ xuất hiện trên
Trắng Đen với bút danh Lê Mỹ Hương nhưng không mấy hấp dẫn. Để có món ăn tinh
thần cho độc giả các báo phải đăng lại tiểu thuyết của Quỳnh Giao hoặc Kim
Dung.
Những sáng tác
tiêu biểu là tập thơ “Đất khách” của Thanh Nam, “ Thơ Cao Tần” của Lê Tất Điều,
tập bút ký “ Thư gửi bạn” của Võ Phiến.
2- Thời kỳ phát
triển : 1981-1985
Từ đầu năm 1980
làn sóng vượt biên đã làm gia tăng đáng kể số lượng người Việt tị nạn. Nhiều
cây bút cũ của Sài Gòn sau khi hết hạn cải tạo cũng xuất cảnh hoặc vượt biên bổ
xung cho đội ngũ văn chương ngoài nước..
Cuộc sống và
trạng thái tâm lý của cộng đồng người Việt hải ngoại tạm thời ổn định. Báo chí
xuất bản tăng lên đột ngột do có máy xếp chữ ảnh điện toán ứng dụng phương pháp
quang học lade. Phong trào chống cộng với hàng trăm tổ chức phản động lưu vong,
ồn ào nhất là trên lĩnh vực âm nhạc đã kích thích không khí sáng tác của giới
văn chương.
“Hội Văn Bút
Việt Nam hải ngoại” được “ Văn Bút quốc tế” công nhận, bầu lại lãnh đạo, hoạt
động cũng mạnh về chính trị.
Lề lối sinh
hoạt của một nền văn học lưu vong cũng hình thành với việc ra đời những tạp chí
chuyên đề văn chương như “ Văn Học” của Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, “Văn” của
Mai Thảo, “ Làng Văn” của Nguyên Hương và Nguyễn Hữu Nghĩa…Một số cây bút mới
xuất hiện cũng nhanh chóng trưởng thành gây được ấn tượng, trong đó có nhiều
cây bút nữ như Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Trần
Diệu Hằng, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Hoàng Bắc…
Theo Nguyễn Hữu
Nghĩa những tác giả được chú ý trong giai đoạn này là Võ Phiến, Tưởng Năng
Tiến, Nguyễn Ngọc Ngạn, Trần Diệu Hằng, Lê Thị Huệ, Hà Thúc Sinh, Hồ Trường An,
Duyên Anh, Nguyễn Mộng Giác, Võ Hoàng…
3- Thời kỳ ổn định
: 1986-1990
Do tác động của
tình hình quốc tế, tình hình đổi mới trong nước, phong trào chống cộng ồn ào
hung hãn lắng xuống.Qua thử thách của thời gian và thị trường, rất nhiều báo
tạp chí bị rơi rụng. Máy vi tính đã phổ biến giúp cho các nhà văn viết lách
thuận lợi và nhanh hơn.
Thực tế đất
nước và văn học đổi mới trong nước tác động vào cộng đồng hải ngoại. Người Việt
và giới cầm bút hải ngoại có nhiều hy vọng, dự cảm về tương lai hòa hợp dân
tộc, tái thiết đất nước.
Trong khi Võ
Văn Ái hô hào chiến dịch “ Chuyển lửa về quê hương” thì nhiều tác phẩm văn học
đổi mới trong nước được phổ biến trong cộng đồng hải ngoại. Một số văn nghệ sỹ
có tên tuổi ở Sài Gòn trước đây muốn xin về thăm đất nước. Cuốn hợp tuyển “
Trăm hoa vẫn nở trên quê hương” tập hợp 27 tác giả ngoài nước và 79 tác giả
trong nước được xuất bản tại Hoa Kỳ trong bối cảnh cổ vũ cho sự đổi mới .
Lo sợ ảnh hưởng
của văn học trong nước, số văn nghệ sỹ diều hâu, cực đoan kêu gọi tấy chay,
ngăn chặn “ sự xâm nhập của văn nghệ Hà Nội cộng sản” vào cộng đồng hải ngoại.
Thù hận và cố chấp họ gọi văn học đổi mới trong nước chỉ là “ đồ giả”, là “ trò
lừa bịp của Hà Nội nhằm chia rẽ đồng bào tị nạn”. Họ tẩy chay, cô lập những
người về thăm đất nước và nhà xuất bản, báo chí in lại tác phẩm trong nước.
Khuynh hướng
văn học chống cộng hung hãn mất dần hấp dẫn, cạn kiệt nguồn sống. Khuynh hướng
văn học lành mạnh gây được ảnh hưởng với cộng đồng hải ngoại và những vấn đề
cấp thiết trong cuộc sống giúp họ tìm lời giải cho tương lai. Bên cạnh Nhật
Tiến, Du Tử Lê, Nguyễn Mộng Giác, Duyên Anh… có thêm nhiều tên tuổi mới đầy bút
lực như Luân Hoán, Thường Quán, Nguyễn Văn Ba, Trân Sa, Khánh Trường, Trần Vũ,
Nguyễn Thị Thanh Bình, Trịnh Y Thư…
4- Thời kỳ phân
hóa, thanh lọc : 1990 đến nay.
Từ 1990, khuynh
hướng trở về cội nguồn trong văn học Việt ngoài nước đã chứng tỏ ưu thế trong
một loạt sự kiện gây chú ý đối với cộng đồng hải ngoại.
Trong Đại hội
Văn bút hải ngoại nhiệm kỳ 1990-1993 liên danh Nguyễn Ngọc Ngạn thất bại,
nhường vai trò lãnh đạo cho liên danh của bác sỹ Trang Châu- Trương Anh Thụy-
Võ Kỳ Điền.
Tháng 10-1991
Tập san văn học nghệ thuật, biên khảo “ Hợp Lưu” ra đời tuyên bố “ đoạn tuyệt
với kiểu quan hệ cũ giữa những người cầm bút hải ngoại đầy những hằn thù, nghi
kỵ, bài bác chia rẽ” và chủ trương một lối thoát dũng cảm là “ trực diện với sự
thật, hướng tầm nhìn về tương lai, đặt tiền đồ của văn hóa dân tộc lên trên hận
thù giai đoạn bằng con đường hợp lưu”.
Tiếp theo,
tháng 6-1992, ở Toronto Canada lại ra đời tạp chí “ Trăm Con” do nữ thi sỹ Trân
Sa chủ biên. Tập hợp ‘ Trăm Con’ chủ trương không bị ràng buộc bởi một quá khứ
nào mà chỉ hướng về tương lai, không bị ràng buộc với bất cứ một lãnh tụ
nào,một chế độ nào, một ngoại bang nào mà chỉ có hòa hợp dân tộc là một.
Người Việt hải
ngoại chào đón ‘Hợp Lưu”, “ Trăm Con” và đánh giá sự ra đời của nó là xu thế
tất yếu đi đến hòa hợp dân tộc. Một độc giả viết: “ Từ bao năm nay có lẽ đến
bây giờ báo chí hải ngoai mới thực sự giành lại được cái chức năng cao quý của
nó, phản ánh trung thực tâm tư nguyện vọng của tuyệt đại đa số đồng bào”.
Cuối tháng 6,
tại Montreal, Võ Đình tổ chức cuộc triển lãm hội họa và sáng tác trong ba mươi
lăm năm của ông để gặp mặt bạn bè đồng sự cầm bút tỵ nạn. Nhưng trước ngày khai
mạc triển lãm, có người gửi thư đến Võ Đình, nhóm “ Hợp Lưu”, “Trăm Con” đe dọa
nếu họ đến Montreal thì sẽ xảy ra hành hung. Tại Toronto, hai tờ “Làng Văn” và
“Chiến sĩ tự do” đòi hỏi Hiệp hội báo chí Canađa triệu tập cuộc họp khẩn cấp
tẩy chay “Trăm Con”. Kết quả năm trên bảy thành viên Hiệp hội không tán thành,
đa số thành viên bỏ phiếu chấp thuận giải tán hội..
Các tòa báo
người Việt khắp nơi đều nhận được bản tin tường thuật vụ Hiệp hội báo chí
Canađa tan vỡ kèm theo lời báo động Việt cộng tung ra chiến dịch “Bông hồng
xám” để phá hoại làng văn hải ngoại. Việc này được giới cầm bút hải ngoại gọi
là “sự kiện động đất ở Montreal”. Ngày 6-7-1992, Chủ tịch Văn bút Việt Nam hải
ngoại ra tuyên bố:
“ Được biết
trong thời gian hai ngày 26 và 28 thangs6 năm 1992 vừa qua tại thành phố Montreal
(Canađa) các nhân sự nòng cốt trong Ban tổ chức buổi sinh hoạt đánh dấu 35 năm
cầm bút của họa sĩ kiêm nhà văn Võ Đình đã bị áp lực từ nhiều phía để ngăn cản
tham dự của một số anh chị em chủ trương hai tờ “Hợp Lưu” ở California (Hoa Kỳ)
và “Trăm Con” ở Toronto (Canađa).
Nhận thấy hành
động này đi ngược với chủ trương và tinh thần Hiến chương của Văn bút quốc tế
mà chúng tôi là một thành viên, Văn bút hải ngoại cực lực phản đối mọi thế lực
cưỡng bức sự tự do sinh hoạt, sự tự do phát biểu tư tưởng của giới cầm bút Việt
Nam tại hải ngoại.
III – Đánh giá các
khuynh hướng văn chương hải ngoại
Trong những tư
liệu mà chúng tôi đã có các ý kiến đánh giá có nhiều điểm khác nhau nhưng có
một nhược điểm chung là lẫn lộn giữa tiêu chuẩn về chính trị với tiêu chuẩn kỹ
thuật và các màu sắc khác nhau về nội dung đề tài của văn chương người Việt
ngoài nước. Có thể nguyên nhân là do chỗ đứng của người nghiên cứu hoặc do
người ta thường ưu tiên cường điệu giá trị của loại văn chương chống cộng như
của Nguyễn Ngọc Ngạn, Thế Giang, Võ Hoàng, Võ Văn Ái
mà nhìn nhận không công bằng với khuynh hướng hiện
thực phản ánh cuộc sống xã hội di tản và tìm kiếm lối thoát cho tình trạng lưu
vong.
Nguyễn Hưng
Quốc cho rằng đặc điểm của văn học lưu vong gồm ba yếu tố:
– Về chính trị là chống cộng, chống lại văn học trong
nước.
– Tự do sáng tác
– Đối kháng lý tưởng.
Bùi Vĩnh Phúc
đưa ra cách phân loại làm sáu nhánh:
– Nhánh Hoài cảm nhớ nhà
– Nhánh Lên đường chiến đấu
– Nhánh Thích nghi
– Nhánh Hội nhập
– Nhánh Tiếp cận lịch sử xã hội
– Nhánh Duy cảm duy nhiên
Nguyễn Mộng
Giác thì quy tất cả về các dạng thức phản kháng chính trị của văn học lưu vong
Việt Nam. Ông phân loại bốn dạng thức:
a. Dạng thức hoài niệm gồm hai giai đoạn:
1975-1979: cảm
thức lưu lạc.
Từ 1979 trở đi gồm hai khuynh hướng:
– Khuynh hướng văn chương phong tục của các cây bút
gốc miền Nam
– Khuynh hướng hồi ký ( trừ hồi ký cải tạo)
b. Dạng thức
văn chương đấu tranh ( gồm cả các hồi ký cải tạo)
c. Dạng thức hội nhập ( chủ yếu là các cây bút trẻ và
các cây bút nữ)
d. Dạng thức phê phán lịch sử
Nguyễn Hữu
Nghĩa tạm chia sinh hoạt văn nghệ Việt Nam lưu vong làm 5 khuynh hướng:
– Khuynh hướng
dấn thân ( gồm cả chống cộng, hoài niệm quê hương và tìm kiếm giải thoát lưu
vong)
– Khuynh hướng xã hội
– Khuynh hướng hoài niệm
– Khuynh hướng giao lưu( với phương Tây và cả với Hà
Nội)
– Khuynh hướng bác học ( gồm cả ba ngành biên khảo,
nghị luận và dịch thuật, thơ, minh họa)
Một tác giả
khác, Trịnh Xuân Kim trên tạp chí “Đất mới” đưa ra 4 khuynh hướng như sau:
– Khuynh hướng chống cộng
– Khuynh hướng hoài vọng
– Khuynh hướng phi chính trị vị nghệ thuật
– Khuynh hướng đổi mới
Ở trên chúng
tôi đã trình bày các cách phân loại khuynh hướng văn học hải ngoại. Tham vọng
phân chia rành rẽ tuyệt đối giữa các khuynh hướng và nghiêng về cổ động chính
trị cho thái độ đối lập với đất nước sẽ làm cho khó tiếp cận thực trạng nền văn
học này trong từng thời điểm cũng như toàn bộ quá trình của nó.
Chúng tôi tạm
thời đưa ra một cách phân chia tổng hợp trên nhiều bình diện khác nhau như sau:
A. Phân chia theo
khuynh hướng tư tưởng chính trị
1. Khuynh hướng
đối kháng với trong nước.
Khuynh hướng
này chịu ảnh hưởng của văn học miền Nam Cộng hòa trước 1975, gồm sáng tác của
một số cây bút có tên tuổi cũ và các cây bút mới nổi lên như Nguyễn Ngọc Ngạn
với một loạt tiểu thuyết như “Màu cỏ úa”, “Chân dung người góa phụ”, “Trong
quan tài buồn”, “Cõi đêm”; Thế Giang vốn sinh trưởng ở Hà Nội vượt biên sang
Tây Đức với tập truyện ngắn “Thằng người có đuôi”…Xuân Vũ nhà văn chiêu hồi năm
1968 đã được giải thưởng của Việt Nam Cộng hòa tiểu thuyết “Đường đi không đến”
có các tiểu thuyết mới “Trên lối mòn hậu chiến”, “Kẻ sống sót”. Phạm Quốc Bảo
với hồi ký “Cùm đỏ”. Tạ Tỵ với “Đáy địa ngục”. Hà Thúc Sinh với “Đại học máu”…
2. Khuynh hướng
thích nghi.
Các nhà văn
theo khuynh hướng này chấp nhận thực tại, ưu tiên cho sự tìm kiếm giải pháp hợp
lý tình trạng lưu vong của cộng đồng tại mỗi nước sở tại.
Hồ Trường An
đưa ra quan niệm ‘’Hợp lưu”.
Tác phẩm cùng tên của ông là một tuyển tập gồm nhiều
truyện ngắn, mỗi truyện là một cảnh đời ly hương, một bài học về phép ứng xử để
tồn tại trong cảnh huống lưu vong. Một cô gái, mẹ và em chết trong chiến tranh,
vật lộn với cuộc sống sau 1975, sống chết gang tấc trên thuyền vượt biên, cuối
cùng đến đất Pháp, lấy chồng người Pháp rồi sinh con đẻ cái, vun đắp cho một
gia đình êm ấm. Một chàng trai hăng hái lao vào hoạt động chống cộng của một tổ
chức người Việt tỵ nạn cũng như đã hăng hái lao vào các cô đầm với những cuộc
tình trác táng rồi bỗng nhiên một ngày thức tỉnh và cảm thấy muốn sống một cuộc
đời mẫu mực, thanh thản của đời công chức.
Hồ Trường An
cho rằng “Hợp lưu” như là một quan niệm sống:
“Dòng chảy đến từ một cội nguồn nào đó xa lắc, nhưng
một khi đã đến cái nơi mà phải gặp một dòng nước khác thì hai dòng cùng gặp nhau
để mà xuôi ra biển. Đó là thái độ chấp nhận ta với người một cách cởi mở, hân
hoan, thư thái”.
3. Khuynh hướng
hòa giải dân tộc
Khuynh hướng
này hướng về đất nước với tâm thế hoài vọng và gắn bó với quê hương chứ không
phải nuôi dưỡng căm thù và “chiến thắng trở về”.
Khuynh hướng
này còn có thái độ phê phán hiện thực trong nước nhưng về mặt chính trị đó là
thái độ chấp nhận, chờ đợi. Có thể thấy quan điểm này trong nhóm “Hợp Lưu”,
“Trăm Con”, trong thơ Du Tử Lê “ Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”, “Trường
khúc Mẹ về biển Đông”. Hoặc ở các tác phẩm của Nhật Tiến, Thụy Khuê, Đặng Tiến,
Nguyễn Thị Ngọc Liên, Trần Vũ, Thường Quán, Luân Hoán, Nguyễn Hồi Thủ, Nguyễn
Bá Trạc…
4. Khuynh hướng
thuần túy nghệ thuật
Thực ra đây chỉ
là một cách gọi, bởi vì khi tác giả chú trọng đến những đề tài mang tính nhân
đạo cũng là một thái độ chính trị lành mạnh. Nhà văn khi viết về các cảnh đời
trong quá khứ của quê hương không nhằm phê phán đả kích xã hội hiện tại, họ chỉ
thể hiện một quan niệm về con người, về quê hương. Các tác giả tiêu biểu của
khuynh hướng này là Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Văn
Ba, Nhị Lang, Trần Mộng Tú, Nguyễn Thị Ngọc Nhung…Có khi khuynh hướng này bàng
bạc cả ở những tùy bút của Võ Phiến, Mai Thảo, Duyên Anh…
B. Phân chia theo các
phong cách sáng tác nghệ thuật
Có thể thấy
trong văn học hải ngoại có 4 khuynh hướng lớn như:
– Phong cách cổ
điển :
Các nhà văn
theo khuynh hướng này viết với kỹ thuật và ngôn ngữ của văn học Việt Nam giai
đoạn tiền chiến như Vi Khuê, Tuệ Nga, Trần Vấn Lệ, Nhị Lang…
– Phong cách
hiện đại:
Các nhà văn
viết với kỹ thuật và ngôn ngữ cấp tiến của văn học miền Nam 1954-1975 và chịu
nhiều ảnh hưởng của các trào lưu văn chương, triết học thế giới hiện đại như Du
tử Lê, Trần Diệu Hằng, Đỗ Kh, Trần Vũ, Mai Thảo, Võ Phiến, Duyên Anh, Nhã Ca…
-Khuynh hướng
thể nghiệm ẩn ức tính dục:
Có thể thấy đậm
nét trong sáng tác của Nguyễn Thị Thanh Bình, Đỗ Kh, Trần Vũ, Kiệt Tấn…
– Khuynh hướng
thể nghiệm tâm linh tôn giáo:
Thấy trong các
cây bút Nghiêu Minh, Nguyễn Hữu Nhật…
C. Phân chia theo
các khuynh hướng lựa chọn đề tài:
Gồm ba khuynh
hướng lớn như sau:
-Đề tài lịch sử
và quá khứ:
Đó là Nguyễn
Mộng Giác với hai bộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ” và “ Mùa biển
động”, hồi ký của các chính khách, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Cao
Kỳ, Trần Văn Đôn, Đỗ Mậu…
-Đề tài cuộc
sống hiện tại trong nước:
Gồm có các tác
giả như Thế Giang, Nguyễn Ngọc Ngạn, Hồ Đình Nghiêm…
– Đề tài cuộc
sống cộng đồng người tỵ nạn
Như Ngọc Khôi,
Cao Bình Minh, Trần Thị Kim Lan, Lê Thị Huệ, Vũ Quỳnh Hương…
D. Các khuynh
hướng bản sắc địa phương:
Có thể trong
văn học hải ngoại sẽ có nhiều khuynh hướng văn chương mang bản sắc vùng miền
khác nhau của đất nước Việt nam và các khuynh hướng văn chương của cộng đồng
người Việt ở các vùng miền trên thế giới. Nhưng hiện tại đã thấy nổi rõ khuynh
hướng văn chương mang bản sắc các địa phương Nam Bộ gồm các tác giả Kiệt Tấn,
Hồ Trường An, Võ Kỳ Điền, Phạm Thăng, Nguyễn Văn Sâm, Huỳnh Hữu Cửu, Nguyễn Văn
Ba, Nguyễn Hoàng Hưng…
Đ. Phân chia theo
các thế hệ cầm bút:
Có ba thế hệ
điển hình là :
– Thế hệ các
nhà văn cầm bút trước 1975 :
Như Bình Nguyên
Lộc, Võ Phiến, Nguyên Sa, Mai Thảo, Túy Hồng, Nguyễn Thị Vinh, Thanh Nam, Trùng
Dương, Dương Kiền, Nguyễn Tất Nhiên, Nam Dao…
– Thế hệ cầm
bút trưởng thành sau 1975:
Gồm có Hồ Đình
Nghiêm, Định Nguyên, Bùi Bích Hà, Phan Tấn Hải, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Ý
Thuần…
– Thế hệ hải
ngoại:
Gồm những người
lớn lên và sinh ra ở hải ngoại đã cầm bút viết văn như Vũ Quỳnh N.H, Hoàng Mai
Đạt, Ngu Yên, Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam…
Mỗi thế hệ có
một vai trò nhất định đối với từng giai đoạn của văn học Việt ngoài nước. Lớp
cầm bút trẻ hiện nay đã bắt đầu sung sức đang làm biến đổi bộ mặt của nền văn
học hải ngoại hợp với xu thế phát triển của thời đại và đất nước.
E. Phân chia theo
thể loại:
Đó là cách phân
chia những người cầm bút theo thế mạnh của ngòi bút theo thể loại sáng tác như
:
– Văn xuôi :
Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Mộng Giác, Trần Long Hồ, Võ
Đình, Võ Phiến…
– Thơ:
Tuệ Nga, Vi Khuê, Du Tử Lê, Nguyên Sa, Luân Hoán, Lê
Tất Điều, Hà Huyền Chi, Khế Iêm, Thường Quán, Viên Linh…
-Biên khảo,
nghiên cứu, lý luận, phê bình:
Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Bùi Vĩnh
Phúc, Nguyễn Hưng Quốc…
IV – Lời kết
Mười tám năm đã
qua.
Một chặng đường
dài đủ cho một thế hệ lớn lên. Nền văn học người Việt ngoài nước đã trưởng
thành, là một nền văn học thực thụ. Đó là công sức của đông đảo những nhà văn
hải ngoại đã vượt qua cơn khủng hoảng, vượt qua hoàn cảnh sống khắc nghiệt, làm
lại một nền văn học để bảo tồn tiếng Việt và văn hóa dân tộc trên đất khách quê
người, để nối dài truyền thống sáng tạo gắn bó với nhân dân, đất nước của văn
học Việt.
Nền văn học
Việt ngoài nước hôm nay có một đội ngũ sáng tác đông đảo hàng mấy trăm cây bút
đủ các thế hệ, đủ các thể loại, với hàng trăm báo, tạp chí chuyên ngành, với
các cơ sở xuất bản có phương tiện hiện đại. Nó đang tự thanh lọc tính chất ly
khai tiêu cực để trở về hội nhập cội nguồn, hòa vào dòng văn học trong
nước.
Có thể một vài
người cầm bút hải ngoại lo sợ điều này, vẫn muốn níu giữ một nền văn học lưu
vong cô độc không cho nó hướng về quê hương. Người ta lo lắng về một ngày hòa
hợp dân tộc, cộng đồng tha hương đều được thoải mái đọc sách báo trong nước và
các tác phẩm văn học hải ngoại cùng với những tác phẩm tinh hoa của văn học
miền Nam trước 1975 được phổ biến rộng rãi trong nước thì cái gì sẽ xảy ra? Một
tác giả của nó đã viết:
“Nó sẽ biến mất
với tư cách một nền văn học lưu vong!”
Nếu ngày ấy có
đến thì có gì phải lo sợ về một quy luật tốt lành. Một khi những người cầm bút
ngoài nước thực sự đóng góp vào công cuộc tái thiết đất nước, chấn hưng dân tộc
và chúng ta có một nền văn học Việt ngoài nước độc đáo là một bộ phận tài sản
văn hóa dân tộc.
—————
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét