6. Agnes Smedley ở Diên An
Agnes Smedley sinh trưởng trong một gia đình công nhân nghèo khổ ở miền Nam nước Mĩ. Chịu ảnh hưởng của gia đình, từ nhỏ đã ủng hộ và hướng về cách mạng công nông.
Mùa Xuân năm 1937, Smedley đến Diên An với tư cách là một phóng viên, thăm “những kì tích anh hùng của cách mạng công nông Trung Quốc”. Lúc bấy giờ, Smedley khoảng hai mươi lăm tuổi. Cô giống với phần đông nữ thanh niên trí thức phương Tây, thẳng thắn nhiệt tình, giàu mơ ước và ưa mạo hiểm, theo đuổi những tình cảm lãng mạn. Cô xinh đẹp và hoạt bát, nói cười vui vẻ, ở nhà hầm, ăn cháo trắng. ăn bánh ngô, mặc quân phục Bát Lộ quân, hỏa mình với quân dân Diên An, tất nhiên cô rất nhanh chóng được các vị cán bô cao cấp của Đảng có cảm tình.
Cô gái tóc vàng mắt xanh này ở lại Diên An mấy tháng liền, tất nhiên được Mao, con người háo sắc đánh hơi, ầm ỹ một thời.
Có thể khẳng định, Smedley và Mao không hề tồn tại “tình đồng chí” chỉ là sự săn đuổi của lạ, của đẹp của thanh niên khác chủng tộc, khác quốc gia, hai bên chỉ muốn đạt được cái hiếu kì về sinh lí, tâm lí mà thôi. Có thể Smedley là người đàn bà phương Tây duy nhất trong đời Mao.
Theo một vi cao niên trong Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc không chịu tiết lộ danh tính kể lại, con gái Diên An thời bấy giờ rất quê mùa, áo quần rộng thùng thình, không biết trang điểm. Còn Smedley thì từng đường cong cơ thể nổi rõ, rất gợi cảm. Cô ta làm quen với “lãnh tụ vĩ đại”, đầu tiên là bắt tay, bước thứ hai là ôm nhau, bước thứ ba là hôn nhau, khiến cho tất cả những nữ nhân viên trong văn phòng của Mao đều kinh ngạc há hốc miệng, không còn biết ra sao. Có lần, một nhân viên bảo vệ lén kể lại với ông bạn đồng hương: cô đầm kia thật vui, mỗi lần Chủ tịch của chúng ta đến thăm cô ấy, cô ôm lấy Chủ tịch mà hôn vào miệng, hôn lâu đến nửa tiếng đồng hồ.
Đó là một chuyện nho nhỏ vẫn lưu truyền ở Diên An thời ấy. Tất nhiên các chiến sĩ cận vệ có trách nhiệm thiêng liêng là đứng gác ở cửa, không gọi, không được vào phòng làm việc của thủ trưởng. Nhưng, trong quan niệm thời gian của người Trung Quốc, nửa tiếng đồng hồ tức là một tiếng. Trai gái ôm nhau hôn một tiếng đồng hồ, tất nhiên có đủ thời gian để làm xong một chuyện khác.
Những hành động quá mức giữa Mao và Smedley không bị kiểm điểm, khiến cho Hạ Tử Trân vợ Mao không chịu nổi, tức đến mức sai cảnh vệ của mình bắn chết con yêu tinh mũi lõ, mắt xanh kia đi. Mao cũng không muốn làm to chuyện, nên yêu cầu Smedley rời Diên An, tiếp tục đi thăm những căn cứ kháng Nhật khác. “Thực sắc tính dã” đối với Mao, trai gái vui vẻ chỉ là nhu cầu sinh hoạt hết sức bình thường.
Những ghi chép của Smedley về cuộc cách mạng công nông ở Trung Quốc và những chuyện giải phóng phụ nữ ở Trung Quốc được giới thiệu với bạn đọc phương Tây. Trong đó cuốn “Ruộng đất cách mạng” chỉ riêng bản tiếng Đức đã in 500 nghìn bản, Smedley, rất có cảm tình với Trung Quốc. Cho đến nay, ba người Mĩ là Agnes Smedley, Edgar Snow, Louise Strong rất nổi tiếng ở đại lục Trung Quốc.
7. Bí mật của tiểu thư Ngô Quảng Huệ
Ngô Quảng Huệ vô cùng xinh đẹp, là một bông hoa đẹp nổi tiếng ở Diên An năm 1937. Hầu hết những người cùng lứa đều quên cô ta, hoặc vì lãnh tụ mà cố tình không nhắc đến tên cô. Nhưng bà vợ trước của nhà văn người Mĩ Snow lại để lại cho chúng tôi những dòng ghi chép quí giá đủ thỏa mãn yêu cầu.
Ngô Quảng Huệ sinh năm 1911 tại tỉnh Hà Nam, cha là quan chức trong chính phủ quân phiệt Bắc Dương, ngoài cha mẹ ra, Ngô Quảng Huệ còn có hai chị gái, hai em gái và một em trai, cô ta là con thứ ba. Thời học sinh, cô ta chịu ảnh hưởng của vụ “thảm án 30-5”, tham gia nhiều hoạt động của học sinh – sinh viên, cô lấy một sinh viên tốt nghiệp đại học Bắc Kinh. Được chồng tài trợ về kinh tế, cô sang Nhật học Đại học Đế quốc. Chồng cô cực lực phản đối cô đi Diên An. Nhưng cho đến sau ngày đi Diên An, hai người vẫn giữ quan hệ vợ chồng. Theo cô ta nói, cô muốn đi Diên An là để khảo sát tình hình giáo dục ở đấy.
Năm 1935, sau sự kiện Tây An năm 1936, cô tham gia một số hoạt động trong phong trào phụ nữ Tây An. Về sau, cô được một cô bạn rất có nhận thức chính trị, giới thiệu cô làm quen với một đảng viên Cộng sản, cuối cùng được bảo lãnh, ngày 19 tháng 2 năm 1937 đi Diên An học tập. Cô đã được nghe các vị như Bác Cổ, Trương Quốc Đào, Mao Trạch Đông giảng bài. Nhưng cho đến ngày cô rời Diên An, cô vẫn chưa được vào đảng.
Cô là một diễn viên giỏi của Diên An. Không những đa tài đa nghệ, cô còn được giáo dục tốt, lịch sự lễ phép, ngoan ngoãn nhu mì, tương đối đẹp, tóc buông xõa bờ vai. Cô thường chải kiểu tóc rất thịnh hành của đám con gái thị thành hồi những năm ba mươi Con gái Diên An thời đó đầu tóc thẳng đuỗn ngắn cũn, trai gái khó phân biệt, Ngô Quảng Huê và tôi là hai người con gái uốn tóc quăn và tô son môi.
Hồi kí của vợ nhà văn Snow viết tiếp:
Hồi bấy giờ tôi không nghĩ Mao và cô ta gian díu với nhau. Cô ta thông minh và thanh cao, cô ta không thể cam tâm làm “thiếp”. Hơn nữa cô ta đã có chồng. Khi tôi biết tin vợ Mao rất nghiêm khắc với sự việc này, tôi vẫn cảm thấy kinh ngạc. Mùa hẻ năm ấy, Ngô Quảng Huệ từ chối mọi lời tỏ tình. Cô ta nói với tôi, tình yêu như thuốc độc, cô không có không gian để lãng phí vào chuyện tình. Lời cô ta nói rất có sức thuyết phục, cho nên cô ta câu được con cá to, lưỡi câu của cô ta móc được “Chủ tịch”. Tôi không thẻ ngờ được vào thời ấy cô ta làm một việc cực kì mạo hiểm. Cuối cùng đã xảy ra chuyện gì? Năm 1937, Mao đuổi ba người phụ nữ khỏi Diên An. Ông ta đuổi vợ là Hạ Tử Trân, và Smedley, Nhưng Ngô Quảng Huệ lại dẫn đến một vấn đề khác. Ngày 31 tháng 5 năm 1937, tôi được mời đến căn nhà hầm rộng thênh thang bên vách núi, thăm Smedley, nữ kí giả người Mĩ,
Trong nhật kí của tôi ghi, Ngô Quảng Huệ tráng trứng với ớt cay, Smedley gọi quán ăn đưa đến một tô canh cải trắng trong lúc chúng tôi đang nói chuyện thì Mao đến. Xem ra, ông là thường khách ở đây. Tối hôm ấy ông ta rất vui. Smedley rất cung kính nhìn ông ta. Ngô Quảng Huệ nhìn ông ta bằng cặp mắt sùng bái người anh hùng. Một lúc sau, tôi lấy làm kinh ngạc thấy Ngô Quảng Huệ đi tới, ngồi bên cạnh Mao, cô ta rất dịu dàng đặt tay lên đầu gối Mao. Ngô Quảng Huệ bảo cô ta uống quá chén, giả vờ ngây thơ ngốc nghếch, Lúc ấy tôi nghĩ đó chỉ là sự việc bình thường lẽ ra tôi phải nghĩ rằng cô ta là một diễn viên. Mao tỏ ra thích thú, ông ta cũng bảo đã uống quá chén. Ngô Quảng Huệ mạnh dạn nắm tay Mao. Tối hôm ấy cô ta cứ diễn đi diễn lại cái trò ấy
Ghi chép của Wells viết tiếp:
Trong thời gian tôi ở Diên An, có người nói với tôi. Hạ Tử Trân vợ Mao đã từng dọa sẽ cho cảnh vệ của bà ta bắn chết Smedley. Mao đã nổi trận lôi đình với hai người kia. Người nói với tôi không nói rõ nguyên nhân. Tin rằng những chuyện Smedley đã làm quá trở ngại đến công chúng, cho nên ít lâu sau cô ta không được ở Diên An nữa. Có thể Smedley đã gây ra những chuyện phiền toái giữa Mao và Hạ Tử Trân. Nhưng tôi không ngờ, Ngô Quảng Huệ cũng có dính dáng đến chuyện đó. Trong khi tôi ở Diên An, tất cả những chuyện đó đều tuyệt đối giữ kín.
Về quan hệ đa chiều giữa Mao và Ngô Quảng Huệ, Smedley có một vị trung ương ủy viên già không chịu tiết lộ danh tính cũng đã nói.
Ngô Quảng Huệ đến Diên An sớm hơn Smedley hai tháng, cả hai cùng tao nhã, xinh đẹp. Trong thời gian đầu, mọi lời nói cử chỉ còn rất lễ độ, đúng mức. Được cơ quan chính trị nội bộ thẩm tra, hai cô không có vấn đề gì. Bộ phận hữu quan biết Ngô Quảng Huệ trình độ tiếng Anh giỏi, liền đưa cô ta về làm việc bên Mao kiêm luôn việc dạy Mao tiếng Anh. Cả đờì Mao học tiếng Anh cũng không sao tiến bộ nổi. Mùa hè năm 1937 có hai nữ kí giả phương Tây là Smedley và Wells lần lượt đến thăm Diên An, cả hai đều được Ngô Quảng Huệ dịch cho những cuộc làm việc với Mao.
Trước khi Smedley đến Diên An, Ngô Quảng Huệ luôn tỏ ra lễ độ, đúng qui tắc trong công tác, Hạ Tử Trân có ấn tượng tốt đối với cô này, gọi là em Huệ, em Huệ, thường sai nhân viên bảo vệ đem cho cô ta những thức ăn ngon. Hồi bấu giờ, sinh hoạt vật chất ở Diên An rất cực khổ, chỉ có Mao và một số ít vị lãnh đạo cao cấp mới được cung cấp đặc biệt. Con gái phương Tây, về mặt quan hệ nam nữ rất thoải mái. Không lâu sau, trong hàng ngũ cán bộ ở Diên An đồn đại: cô gái Tây đã câu được Chủ tịch của chúng ta rồi; Chủ tịch của chúng ta cũng thích gái Tây. Họ còn nói với nhau hai người lúc đứng thì thế nào, cô gái Tây cứ cắn vào vai Chủ tịch. Vì vừa kết thúc cuộc trường chinh, biết bao nhiêu chiến sĩ Hồng quân chết dọc đường, mọi người phải giữ uy tín cho Chủ tịch, những tin đồn như vậy rất nhanh chóng được các tổ chức cơ sở của Đảng dẹp yên.
Để công tác được thuận tiện, Ngô Quảng Huệ và Smedley cùng ở chung một căn nhà hầm, Ngô Quảng Huệ ở phòng ngoài, sau khi Smedley có quan hệ ấy, không tránh khỏi Hạ Tử Trân chê tính cách của cô ta, thường vì những chuyện nho nhỏ mà khóc lóc ần ỹ, thậm chí thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với nhau. Tất nhiên Smedley được Ngô Quảng Huệ dịch lại cho nghe. Bất giác, cả hai cô gái đều đồng tình với sự lục đục trong gia dình Mao. Smedley sớm muộn gì rồi cũng rời Diên An, cô ta và Mao hiểu rất rõ, vì việc công hay vì việc tư thì Smedley cũng không thể giữ mãi quan hệ thân mật lâu dài như thế được. Smedley là con người nhiệt tình công tác và rất hay giúp đỡ người khác, thấy cái vẻ lẳng lơ lãng mạn của Ngô Quảng Huệ, lại giỏi tiếng Anh, con người có học, cô ta nghĩ nên tác hợp cô ta với Mao.
Mao là con người cực kì thông minh! Chuyện gì cũng biết thật cặn kẽ. Làm gì mà Mao không hiểu ý tốt của Smedley? Thật ra, từ lâu Mao đã thích Ngô Quảng Huệ rồi, Nhưng chỉ vì Hạ Tử Trân khóc lóc làm ầm ỹ. Lâu dần, Ngô Quảng Huệ cũng động lòng, Ngô Quảng Huệ vốn rất sùng kính Mao, người anh hùng của thời đại. Từ đấy về sau, mỗi lần Mao đến chơi, Smedley nếu không cài chặt cửa ở trong phòng đánh máy viết bài, thì cũng kiếm cớ đi gặp vị lãnh đạo nào đó, để Mao và Ngô Quảng Huệ ở nhà, làm chuyện riêng của họ. Nhân viên bảo vệ tất nhiên chỉ có thể đứng ngoài canh cửa đề phòng ai đó bất chợt xông vào, nguy cho tính mạng của Chủ tịch.
Chuyện của Mao và Ngô Quảng Huệ cuối cùng đến tai Hạ Tử Trân. Vào một đêm, Mao ở lại trong căn nhà hầm của Ngô Quảng Huệ, hai người đang chuyện trò say sưa, tình ý đang nồng, Hạ Tử Trân lăng lẽ đến, đập cửa rầm rầm nhà Ngô Quảng Huệ. Ngô Quảng Huệ đành ra mở cửa. Trong nhà đèn lửa tối om. Hạ Tử Trân soi đèn pin. Thấy Mao đang thu lu trong góc tối. Hạ Tử Trân không nén nổi, nổi nóng, làm ầm ỹ, giẫm chân gào khóc. Smedley ở phòng trong, nghe thấy phòng ngoài đang náo loạn, chạy ra xem, bất ngờ bị Hạ Tử Trân vung đèn pin đánh nhau. Vì Hạ Tử Trân hận cô ta cướp chồng của mình, lúc này nghi ngờ Smedley đã dắt mối đưa đường để Máo đến với Ngô Quảng Huệ. Cuộc đánh nhau cai lộn chẳng còn ra thể thống gì, đường đường là một vị Chủ tịch trung ương, làm chuyện vụng trộm, ảnh hưởng không tốt. Dù sao thì Smedley cũng là một cô gái nước ngoài. Hạ Tử Trân là một nữ anh hùng cũng không thể dùng đèn pin đánh người nước ngoài được. có bản lĩnh thì đánh chồng mình trăng hoa gái gú! Tất nhiên, đó chỉ là chuyện vặt trong sinh hoạt của một nhân vật vĩ đại. Rất nhiều tướng lĩnh cao cấp đều nói, ông ấy vào sinh ra tử, dẹp loạn thiên hạ, ngủ với vài cô gái, có sao đâu?
Đủ rồi! Nút thắt quan hệ đa chiều giữa Mao và Smedley, Ngô Quảng Huệ như thế là đã được mở ra.
Người thắt nút cũng là người mở nút. Mao tung vương quyền, hạ lệnh đuổi ba người là Hạ Tử Trân, Ngô Quảng Huệ và Smedley khỏi thánh địa cách mạng, củng cố vương quyền. Một lần nũa đàn bà là vật hi sinh.
Cần nói thêm một câu: Smedley là một kí giả người Mĩ, tính cách độc lập rất mạnh mẽ, rất trọng nhân cách, nhân quyền. Ngô Quảng Huệ cũng là một nữ trí thức mới, tìm kiếm địa vị giải phóng phụ nữ, họ giữ thân như ngọc, dính bẩn Mao. Mùa thu năm 1937, rất ngoan ngoãn vâng lệnh Mao, rời Diên An thân yêu của họ.
8. Ngôi sao Lam Bình đáng thương
Có thể dúng tám chữ “đáng khen, đáng thương, đáng buồn, đáng hận” để tóm tắt cuộc đời Giang Thanh.
Giang Thanh họ Lí, tên Vân Hạc, lại còn có tên Lí Thanh Vân, nghệ danh là Lam Bình, về sau gọi là Lí Tiến, Tuấn Lĩnh, sinh năm 1914, người Chư Thành, tỉnh Sơn Đông. Khang Sinh, người đứng đầu ngành tình báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng quê và có tác dụng tạo nên những cơn sóng trong cuộc đời đầy sóng gió của bà ta. Nhưng thắng hay bại đều không ra sao. Năm 1976, sau bốn mươi năm sống bên Mao Trạch Đông, Khang Sinh trước khi chết, nhờ cháu gái Mao là Vương Hải Dung nói nhỏ với Mao, trong lịch sử, Giang Thanh là tên phản bội, diễn một màn hoạt kịch đằng sau bức màn sắt của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đó là lời nói sau cùng.
Có thể nói, cô gái Lí Vân Hạc có khuôn mặt xinh đẹp, thân hình thon thả, từ nhỏ không thích học hành, chỉ ham chơi bời. Từ năm mười bốn tuổi, Vân Hạc đã yêu đương sôi nổi lắm rồi, cặp bồ hết anh này lại đến anh khác. Một nữ kí giả người Mĩ đã từng phỏng vấn bà ta sau cuộc đại cách mạng văn hóa. Theo lời kể của Giang Thanh, lúc về Mĩ, bà ta viết cuốn sách “Hồng đô nữ hoàng” đã kể rõ họ tên từng người đàn ông đã từng chung đụng xác thịt với nhau, tính ra có đến hơn một chục người. Trong đó, những người chính thức kết hôn với bà đáng nhớ nhất là bốn người.
Người chồng đầu tiên là Ngụy Hạc Linh, bạn học với bà khi còn học ở Học viện kịch nghệ thực nghiệm Sơn Đông, lấy nhau được ít lâu, bị bà ta bỏ rơi;
Người chồng thứ hai là Du Khởi Uy, tức Hoàng Kính (Về sau là thị trưởng Thiên Tân dưới thời Cộng sản), do chung sống mà lấy nhau không quá ba năm, cũng bởi bà ta yêu một người khác nên bỏ ông này;
Người chồng thứ ba là Đường Nạp, lúc ấy (tháng 4/1935) bà đã đến Thượng Hải, vào làm việc ở Công ti điện ảnh Điện Thông, đổi tên là Lam Bình. Đường Nạp là nhà phê bình điện ảnh có khả năng hô phong hoán vũ trong giới. Trước khi lấy nhau, bà rất cần được Đường Nạp “lăng-xê”. Lấy nhau được một tháng, bà bắt đầu ngoại tình với Chương Dân, một đạo diễn nổi tiếng;
Người thứ tư bà công khai sống với nhau là Chương Dân, đạo diễn điện ảnh, một người đã có vợ. Sau sự kiện Mồng 7 tháng 7, toàn dân kháng chiến bắt đầu, Chương Dân rời Thượng Hải, còn Lam Bình thì đi Tây An, hai người chia tay nhau. Từ Tây An, Lam Bình chuyển về thánh địa cách mạng Diên An. Bốn người đàn ông không ai bỏ cô ta mà đi, chỉ có cô ta bỏ “nhà” ra đi, vứt họ lại. Đúng là nữ trung hào kiệt, anh hùng son phấn, làm nên điều ngước lại của truyền thống nam tôn nữ ti.
Đầu những năm Ba mươi, Lam Bình đã có những ngày tháng trong giới điện ảnh – kịch trường tả khuynh ở Thượn Hải, có quan hệ ân ái với những người khác như Sử Đông Sơn, Đặng Quân Lí, Triệu Đơn, Kim Sơn, Viên Mục…
Lam Bình đến Diên An vào mùa đông năm 1937. Gặp đúng lúc Mao ra lệnh đuổi ba người phụ nữ, kể cả Hạ Tử Trân vợ ông ta đi khỏi Diên An. Lúc ấy, Lam Bình mới hai mươi bốn tuổi, giống như một trái cây vừa chín đến, khao khát yêu đương, thêm vào đó là kinh nghiệm tình dục của mười mấy, hai chục người đàn ông, đúng là con người bách chiến, xinh đẹp lãng mạn, vô cùng yêu kiều.
Thoạt đến Diên An, Lam Bình vào làm giáo viên tại Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn do Chu Dương phụ trách. Chỉ ít lâu sau, Lam Bình đã yêu Từ Nhất Tân, một cán bộ cấp vụ. Dùng một câu của giới điện ảnh – kịch trường thường nói là, “Lam Bình luyến ái, áo dài có dây”. Lưu Nhất Tân là người du học ở Liên Xô về, là một trong số “hai mươi tám người nửa Bôn-sê-vích”, là người phụ trách giảng dạy nghệ thuật. Nhưng Từ Nhất Tân được Lam Bình tiếp xúc nơi này nơi khác, phát hiện Từ là kẻ rỗng tuyếch, về chính trị không có đường phát triển, về tình yêu, chỉ là để lấp chỗ trống trong lúc khát khao tình cảm, tình dục. Lam Bình lại là người từ năm mười bốn tuổi lúc nào cũng cần có đàn ông yêu đương, nâng niu, chiều chuộng. Ở đây, Lam Bình làm quen với Khang Sinh, trùm tình báo của Cộng sản Trung Quốc. Lam Bình nhận ông ta là đồng hương. Lúc ấy Khang Sinh mới bốn mươi tuổi, đã có gia đình, đang nắm “Bộ Trừ gian” vô cùng lợi hại của Đảng, về sau bộ này được đổi tên thành “Bộ Tình báo xã hội”. Khang Sinh là kẻ đa mưu túc kế, bán rẻ Vương Minh là cấp trên của mình để tỏ lòng trung thành với Mao, diệt trừ những người không ăn cánh, giết người không ghê tay. Ở Diên An, ai cũng gọi y là “Khang bộ trưởng”.
Khang Sinh chỉ thoáng cái đã nhận ra tiểu thư Lam Bình, tuy trên đầu đội mũ tám cạnh, mặc đại cán, nhưng vẫn lộ vẻ thướt tha, thân hình ngọc ngà, khuôn mặt trái xoan trắng hồng, đôi mắt vừa to vừa sáng, sống mũi cao, vành môi đầy đặn. Đặc biệt nhất là, nụ cười của Lam Bình làm say lòng người, hai lúm đồng tiền ngọt ngào trên hai má. Đó chẳng phải là một “long vật” kinh dâng Chủ tịch hay sao? Thông qua cặp kính dày cộp, Khang Sinh đã sẵn mưu tính. Trong bụng đã định rồi, trước một “sắc đẹp ăn được” như thế này, Khang Sinh cũng chỉ có thể no con mắt mà thôi. Lần này thì phải để Chủ tịch suốt đời không quên chiến công “gái đẹp”, ha ha ha.
Tết năm ấy, Lam Bình tham gia buổi biểu diễn trong cơ quan trung ương Đảng, Bốn đại mĩ nữ Diên An là Tôn Duy Thế, Phùng Phượng Danh, Quách Lan Anh, Trương Tỉnh Phượng cùng múa hát. Mao Trạch Đông, Trương Văn Thiên, Chu Ân Lai, Bác Cổ, Nhiệm Bật Thời và các vị lãnh đạo khác cùng dự liên hoan. Có thể coi đây là lần đầu Mao gặp mặt Lam Bình. Nhưng lần gặp mặt này, Lam Bình không để lại ấn tượng nào cho Mao. Phần lớn thời gian, ánh mắt Mao đều đổ dồn vào Tôn Duy Thế và Phùng Phượng Danh. Lam Bình thực sự khiến Mao phải chú ý đó là mùa hè năm 1938. Vẫn là “Khang bộ trưởng” mách bảo, cố ý xếp đặt. Hồi ấy, Diên An có mấy trường “đại học”. Ngoài “Đại học Hồng quân” – về sau đổi tên là “Đại học Kháng Nhật” -, “Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn”, ngoài ra còn có “Học viện Mác – Lê” chuyên bồi dưỡng cán bộ trung, cao của Đảng. Để tạo dựng hình ảnh lãnh tụ, uy tín lí luận, Mao luân phiên đến giảng bài ở các trường “đại học” ấy, đồng thời kiêm luôn chức “Hiệu trưởng”, “Viện trưởng” ở mấy trường ấy. Lúc Mao giảng bài bằng tiếng quan thoại pha giọng Tương Đàm, các cán bộ giảng dạy của các trường khác đều có thể đến nghe.
Dần dần, Mao chú ý, mỗi lần lên bục giảng bài, ngồi ngay hàng ghế đầu tiên có một nữ đồng chí xinh đẹp, mắt nhìn Mao không chớp, tỏ ra rất sùng kính. Trong đám nữ bát lộ quân quê mùa, Lam Binh đúng là chim công giữa đàn gà. Hơn nữa, nữ đồng chí xinh đẹp này cũng rất chăm chú nghe giảng, thỉnh thoảng đứng dậy nêu câu hỏi, đề nghị “Chủ tịch” giải đáp. Cuối cùng Mao cũng phải động lòng. Có lần, giảng bài xong, Mao xuống hàng ghế thứ nhất bắt tay, nói chuyện với nữ đồng chí xinh đẹp này. Khang Sinh lập tức giới thiệu: đồng chí này tên là Lam Bình, là minh tinh màn bác của điện ảnh cánh tả Thượng Hải, đến Diên An đầu quân cách mạng, chưa có chồng.
Mao là một vĩ nhân trong lòng vốn sẵn tình ý, ngày lúc ấy hỏi: “Đồng chí Lam Bình, còn vấn đề gì nữa không? Rất hoan nghênh đồng chí đến chỗ tôi để chúng ta cùng thảo luận.”
Chủ tịch gọi, lẽ nào không đến? Từ nửa năm trước, Mao đã tức giận đuổi ba người đàn bà, đang trông trải thiếu thốn, giường không lạnh lẽo. Tiểu thư Lam Bình tấm thân ngọc ngà ngát hương, thuộc loại ăn chơi, đang muốn vươn lên, tốc độ còn nhanh hơn việc Mao gặp Hạ Tử Trân mười một năm trước ở huyện Vĩnh Tân tỉnh Giang Tây: lần gặp đầu tiên đã giữ lại ăn cơm thường rượu nhạt, chuyện trò thân mật, ăn xong giữ lại ngủ. Lam Bình từ ngày toàn thân giải phóng, đủ chuyện phong tình. Nhận ra ngay có thể Mao chưa bao giờ được vui sướng như vậy. Mà cô ta cũng chưa bao giờ cuồng điên như vậy. Chiến đấu thâu đêm suốt sáng. Trời sáng rõ, Mao mới ôm nàng làm một giấc. Trước khi ngủ Mao còn nói đùa một câu: “Từ nay quân vương không thiết triều buổi sáng nữa.”
Hạ Tử Trân, nữ anh hùng Hồng quân còn ở Mạc Tư Khoa vẫn là vợ danh chính ngôn thuận của Mao, lúc này Mao không tuyên bố như mười một năm trước: ông ta và đồng chí Lam Bình từ “tình đồng chí” chuyển thành “tình chồng vợ”. Bởi vậy, Lam Bình qua lại với Mao chỉ có thể là để “cầu học”, cùng nghiên cứu chủ nghĩa Mác, bí mật hành lạc, chơi trò mèo vờn chuột. Có lần, sau lúc vui vẻ, Mao ngâm cho Lam Bình nghe bài thơ Đường ngũ ngôn “Tương linh cổ sắt”. Bài thơ này kết thúc bằng câu: “Giang thượng số phong thanh”, Mao đọc xong rồi lấy hai chữ đầu và cuối của câu thơ, đổi tên Lam Bình thành Giang Thanh. Tuy trên giường là một cao thủ, nhưng với kiến thức hạn chế, Lam Bình chưa thể hiểu nổi bài thơ kia.
Những cuộc truy hoan vụng trộm, gấp gấp, khiến tình dục của họ càng thêm mạnh mẽ. Nhưng chẳng mấy lúc đã có chuyện. Sáng nào cũng vậy, Lam Bình cũng nhảy qua cánh cổng trước căn nhà hầm của Mao, cảnh vệ thấy một bóng đen, nghi là kẻ gian định sát hại “Chủ tịch”, liền xông tới định bắt. Lam Bình ngã cũng không dám kêu khóc. ”Chủ tịch” rất cảnh giác, nghe thấy bên ngoài có tiếng động liền chay ra giải cứu.
Lam Bình không biết xấu mặt, quyến rũ Chủ tịch của chúng ta.
Tin tức không cánh mà bay, cứ lặng lẽ lan truyền khắp Diên An. Cán bô cơ quan trung ương và chiến sĩ, ai cũng tỏ ra phẫn nộ. Sự đông tình và lòng chính nghĩa của họ đều đứng cả về phía Hạ Tử Trân. Hạ Tử Trân cùng họ băng qua núi tuyết, đông cỏ, một sống mười chết, đúng là một nữ anh hùng hồng quân.
Có một câu tục ngữ dân gian, cười người không cười gái điếm, chửi gái không ai chửi đàn ông. Trong Quốc là một xã hội đàn ông làm chủ, thần dân có tâm lí truyền thống, bất cứ ở đâu có chuyện trai gái lén lút vụng trộm, sẽ tạo nên dư luận xã hội, trong đó có cả những người phụ nữ, đều nguyền rủa chửi mắng rằng không biết nhục. Tóm lại, “dâm phụ” chứ không phải “gian phu”. Đối với những người đàn ông có thể quyến rũ người con gái, dù sao trong lòng mọi người đều tỏ ra kính nể, khâm phục anh ta có tài, có thủ đoạn hay.
Diên An năm 1938 đúng như vậy. Cán bộ trong cơ quan trung ương, chiến sĩ trong đội cảnh vệ, đại bộ phận là những người sống sót qua cuộc vạn lí trường chinh, xuất thân nghèo khổ, trình độ văn hóa thấp, tỉnh cảm giai cấp chân thành, rất sùng bái lãnh tụ, trung thành với cách mạng. Lam Bình bị mọi người chỉ trích, ai cũng nghiến răng gọi là yêu tinh, thủ phạm phá hoại “hạnh phúc gia đình của chị cả Trân”.. Các chiến sĩ hồng quân có thể không nghĩ, trong chuyện trai gái lén lút vụng trộm, “Mao Chủ tịch” phải chịu phần trách nhiệm chính,
Một cán bộ hông quân già, xuất thân trí thức, nhớ lại câu chuyện ăn chơi thòi bấy giờ ở Diên An, than thở:
- Giang Thanh và Mao có quan hệ mờ ám, thật sự không ra sao. Bà ta chịu mọi lời chê trách, chửi rủa. Hồi bấy giờ, các cơ quan, học viện, trường học trực thuộc trung ương, trong các tổ học tập, trong sinh hoạt chi bộ, mọi người đều bàn luận chuyện Giang Thanh, nguyền rủa Giang Thanh, ngôi sao điện ảnh đến từ Thượng Hải, con yêu tinh tư sản, quyến rũ Chủ tịch của chúng ta, phá họai hạnh phúc gia đình Hạ Tử Trân… Đúng là con hồ li nghìn người cưỡi!
Không sao kể hết tội Giang Thanh, dù có nhảy xuống sông Hoàng cũng không tẩy rửa hết tội.”
Có lần, vị cán bộ hồng quân xuất thân là một trí thức, đến một trạm y tế trực thuộc trung ương để xếp hàng khám bệnh, lĩnh thuốc, Giang Thanh xếp hàng ngay trước mặt ông. Ông thấy, tất cả bác sĩ, y tá hồng quân đều nhìn cô ta bằng cặp mắt khinh bỉ.
- Cô tên gì?
- Giang Thanh.
- Trong sổ dăng kí của chúng tôi không có ai tên là Giang Thanh.
- Cô tên là Giang Thanh à?
- Thay tên đổi họ rồi sao? Cô là Lam Bình, diễn viên điện ảnh cơ mà?
- Chị Hạ Tử Trân biết cô thay tên đổi họ chưa?
- Nhân viên phát số thứ tự cũng ghét cô ta.
- Như vậy gọi là leo lên cành cao làm phượng hoàng à?
- Người khỏe mạnh nõn nà như vậy còn đi xin thuốc? Hay là có rồi?
- Không thể cho thuốc vớ vẩn được!
Giang Thanh cúi đầu, mặt đỏ, để rơi mấy giọt nước mắt. Cô ta không chịu nổi nữa, bật khóc to, không lấy thuốc nữa mà cứ thế bỏ ra cửa.
Bác sĩ và y tá vẫn chưa chịu tha, chửi theo mấy câu:
- Mặt dày như mảnh sành, vậy mà cũng biết khóc.
- Chị Hạ Tử Trân về sẽ tìm con yêu tinh này hỏi tội.
Bị mọi người ghét bỏ, Giang Thanh rất khó ở Diên An. Mà Mao cũng khó xử. Vì các cán bộ trung ương, tướng lĩnh cao cấp cũng có những lời chê trách về quan hệ giữa Mao và Giang Thanh. Trong Bộ Chính trị có những nhân vật chống Mao như Bác Cổ, Hà Khải Phong, nhân chuyện này họ đều có ý kiến, gia tăng áp lực với Mao. Trong hàng ngũ tướng lĩnh có Hạ Long, Bành Đức Hoài tỏ ra bất bình thay cho Hạ Tử Trân.
Sự việc đã đến nước này rồi, ngay cả Khang Sinh đa mưu túc kế cũng đành bó tay.
Lúc bấy giờ, tuy Mao nắm quyền chỉ huy quân sự tối cao, giữ chức “Chủ tịch quân ủy trung ương”, Nhưng ở địa vị lãnh tụ tối cao, ghế vẫn chưa vững, mà cũng chưa chính danh. Chức Tổng bí thư vẫn còn trong tay Trương Văn Thiên. Mao yêu nước, nhưng cũng rất yêu gái đẹp. Nếu phải chọn một trong hai điều đó, tất nhiên Mao chọn đất nước mà vứt bỏ gái đẹp. Có giang sơn đất nước rồi, có gì phải buồn vì không có gái đẹp? Quyền hành cũng có cái tốt cái xấu, cuối cùng Mao đã có quyết sách sáng suốt, đưa Giang Thanh sang bên kia sông Hoàng, đến Tổng bộ Bát Lộ quân ở núi Thái Hàng làm một số việc thực tế, rèn luyện, để ngọn lửa chiến tranh kháng Nhật tẩy sạch những thói xấu của giới trí thức, giai cấp tiểu tư sản.
Vậy là Mao lại đuổi người phụ nữ thứ tư khỏi thánh địa Diên An!
Giang Thanh tức lắm! Giang Thanh là người phụ nữ mới phản đối mạnh mẽ ý thức hệ phong kiến, Nhưng lại rơi vào giữa đám cán bộ, chiến sĩ Hồng quân công nông mang đậm ý thức hệ phong kiến, để trở thành vật hi sinh. Giang Thanh không muốn rời Diên An, không muốn xa Mao. Bà ta biết rằng một khi mình bỏ đi, lập tức sẽ có người đẹp thế vào khoảng giường còn trống bên Mao, bản thân sẽ không thể quay về nổi. Bà ta vẫn chưa chịu thôi.
Cũng may, Diên An nghèo khổ, son phấn không sẵn, Giang Thanh là người đẹp nổi tiếng, giơ tay giơ chân, chỉ một nụ cười cũng hơn hàng chục, hàng trăm lần đám con gái hồng quân quê mùa, xanh xao vàng vọt vừa vượt vạn dặm trường chinh. Hay là đi tìm chi hai Đặng Dĩnh Siêu và Phó Chủ tịch Chu Ân Lai xem? Hai vợ chồng Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu là những người hiền lành nổi tiếng ở Diên An, họ cũng rất thân thiết, dễ chịu, quan tâm mọi người. Họ không có con, nhưng nhận nuôi người người mô côi trong hồng quân.
Nghĩ đến đây, Giang Thanh tội nghiệp tưởng như tìm được cơ hội xoay chuyển tình thế. Bà ta không dám mạo muội hành động, trước tiên phải đi hỏi ý kiến “Khang bộ trưởng”.
Được Khang Sinh gật đầu, Giang Thanh làm ra vẻ giản dị, nhu mì. Gặp vợ chồng Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu, Giang Thanh khóc lóc thảm thương, tựa như người con gái cô đơn, chịu mọi oan ức, khổ cực ở đời.
Liêu có ai vô tình với ngọc ngà ngát hương, không quan tâm đến người đẹp? Chu Ân Lai đồng ý ngay, ông còn giúp cả Giang Thanh và Mao thu xếp một số việc. Hạ Tử Trân đi Mạc Tư Khoa, vừa học tập vừa chữa bệnh, một vài năm chưa thể về nước, đồng chí Mao cũng cần có người phụ nữ ở bên cạnh để chăm sóc. Người chứ không phải cỏ cây, cần phải có tình cảm. Tốt nhất là để một phụ nữ cố định đánh trận địa chiến với Mao, như vậy có lợi cho cách mạng, còn hơn cứ để Mao đánh du kích với đám con gái, thỉnh thoảng lại lan truyền những tin tức không hay, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và của Bát Lộ quân.
Ở núi Tĩnh Cương, Chu Ân Lai rất được Lí Đức một vị cố vấn người Nga tím nhiệm, Chu toàn quyền lãnh đạo Hồng quân, là cấp trên của Mao. Ông cùng Chu Đức, Trần Nghị hai lần kỉ luật cách chức “chính ủy Hồng quân” và đình chỉ công tác của Mao. Vị cố vấn người Nga chỉ huy phía sau, cuộc chiến phá vây lần thứ năm của Hồng quân trung ương thất bại. Ba mươi vạn hồng quân rút lui, Chu Ân Lai dần dần mất uy tín chỉ huy toàn quân. Đến Thiểm Bắc, hoàn thành hai vạn năm nghìn dặm vạn lí trường chinh, nhất là tháng 12 năm 1936 sau sự kiên Tây An, quyền chỉ huy quân đội của ông được chuyển sang tay Mao, đồng thời dặt mình vào vị trí trợ lí của Mao, mọi việc phải nghe theo lệnh của Mao. Mọi học vấn, trí tuệ hơn người của ông đều dồn cả vào những vòng đàm phán với các chính đảng, các nhân vật, suốt đời ông không mệt mỏi với công việc đó.
Đây cũng là cơ hội điều chỉnh các mối quan hệ, loại bỏ những oán thù cũ.
Để tác hợp cho Mao và Giang Thanh, nhiều lần Chu Ân Lai đưa Giang Thanh ra bờ sông Diên đua ngựa, Đua ngựa là thú vui mà Giang Thanh có được sau khi đến Diên An, mà cũng là nhu cầu của thời chiến. Nhưng cái số của Giang Thanh không tốt, có lần, bà ta và Chu Ân Lai cưỡi ngựa đi song song bên nhau, bất ngờ buông lỏng dây cương trong tay, con ngựa đập đầu vào đầu ngựa Chu Ân Lai đang cưỡi, khiến Chu bị ngã, bị gãy xương cánh tay trái. Thiết bị y tế ở Diên An rất kém, không thể điều trị nổi vết thương của Chu, Chu phải đi Cam Túc, qua Tân Cương để sang Liên Xô điều trị. Nhưng vì thời gian đi đường quá lâu, một bác sĩ rất giỏi đề nghị chặt bỏ cánh tay. Chu kiên quyết phản đối, đành phải điều trị để giữ lại cánh tay. Từ đấy, cánh tay trái của Chu Ân Lai bị gãy ở phía trên khuỷu tay, không thể duỗi thẳng.
Giang Thanh ở Diên An được mọi người đặt cho nhiều cái tên mới: yêu tinh thối, hồ li lẳng lơ, bạch hổ tinh, yêu tinh cán chổi… quyến rũ Chủ tịch của chúng ta chưa đủ còn làm gãy tay Phó Chủ tịch Chu Ân Lai.
Chuyện đến đây, có thể vì nghiệp chướng từ kiếp trước, kiếp này báo oán, liệu còn gì để nói nữa? Bản thân Mao cũng lòng lang dạ thú, đuổi Giang Thanh đi chỗ khác. Đúng lúc, tổ chức một phân đội qua sông Hoàng, hộ tống mấy vị cán bộ đến tổng bộ Bát Lộ quân ở núi Thái Hàng, thuộc tỉnh Sơn Tây, Giang Thanh được phiên chế vào đơn vị này để ra mặt trận, có cơ hội thử thách.
Buổi tối trước khi lên đường, Mao đích thân chuẩn bị thức ăn, mở tiệc chiêu đãi tiễn biệt. Bữa ăn đạm bạc, lời tiễn sâu xa: ra tiền tuyến phải cố gắng rèn luyện, hòa mình với công nông, làm một chiến sĩ cách mạng thực sự. Cặp mắt đưa tình, khóe mắt vương hận, cũng là nỗi khổ đau trai gái li biệt Cả hai trong lòng đều hiểu, trong những năm tháng chiến tranh lửa đạn đầy trời, sống chết khó biết, không biết ngày nào mới gặp lại nhau. Buổi tối cuối cùng ấy, Giang Thanh rất chân thành dâng hiến, giải phóng toàn thân, loan điên phượng đảo, oanh kêu yến hót, đưa Chủ tịch vào cõi thần tiên.
Sáng sớm hôm sau, nghe quân lệnh, Giang Thanh bật dậy, đến địa điểm tập hợp. Tất nhiên Mao không ra tiễn. Giang Thanh ngoan ngoãn theo phân đội rời Diên An, cũng không đến nối mỗi bước đi ba lần ngoảnh lại. Lòng những đau khổ, buồn bã biết thổ lộ cùng ai?
Đơn vị ngày đi đêm nghỉ lại, hai ngày thì đến bờ tây sông Hoàng. Đơn vị lên những cái bè kết lại bằng da cừu, Hoàng hà sóng nước mênh mông, gào thét như sấm rền, bờ bên kia là địa bàn của Diêm Tích Sơn, “vua Sơn Tây”.
Từ ngày Quốc Cộng hợp tác tan rã, trung ương Đảng dùng phương thức “đấu tranh vũ trang” để chống lại Chính phủ trung ương Quốc Dân đảng. Sau sự cố Tây An, Quốc Cộng hợp tác lần thứ hai, phương thức đấu tranh vũ trang càng được hợp pháp hóa. Trung ương đảng đóng đô ở Diên An. Diên An cử cán bộ đi khắp các căn cứ địa trong cả nước. Nếu Trung ương cần triệu tập người phụ trách các căn cứ địa về họp phải làm thế nào? Trung ương có một hệ thống đường dây liên lạc cực kì bí mật, cực kì cao siêu, gọi là liên lạc đơn tuyến, giao nhận người ở các trạm liên lạc. Kể cả vùng bị Nhật chiếm đóng, vùng Quốc Dân đảng cai quản cũng có những trạm liên lạc bí mật. Mỗi trạm có một giao liên. Cán bộ đêm đi ngày nghỉ, ở các trạm sẽ do giao liên đưa đi. Cho dù giao giao liên bị bắt, phản bội, đầu hàng kẻ địch cũng không gây tổn thất bao nhiêu, vì anh ta chỉ biết trạm liên lạc phía trước, còn nữa không hay biết gì. Tổ chức bí mật của trung ương lại thiết lập đường dây khác, cử những giao liên mới.
Lại nói về phân đội của Giang Thanh sau khi qua sông Hoàng, gặp ngay lúc máy bay Nhật ném bom, bắn phá, đánh trúng trạm liên lạc, giao liên chết. Vậy là phân đội mất liên lạc với phía trước. Mấy cán bô được phân đội bảo vệ hộ tống cũng không đến được Bộ Tổng chỉ huy Bát Lộ quân ở núi Thái Hàng, lại qua sông quay về Diên An.
Đối với Giang Thanh, đúng với câu nói trước đó của “Khang bộ trưởng” Trời không diệt Tào!
Về đến Diên An, Giang Thanh xông thẳng đến hang động của Mao. Giang Thanh đi rồi, Mao đang buồn, bỗng như tiên nữ trong mơ bất thần hiên ra ngay trước mặt, liền ôm chầm lấy Giang Thanh, không chịu buông. Mao không hề rơi nước mắt trước những cuộc sinh li tử biệt, Nhưng lúc này nước mắt lưng tròng, nói: “Ông trời thưởng cho tôi một tiên nữ, phải không?”
Từ đấy, Giang Thanh luôn ở bên Mao, làm một con chim nhỏ dựa vào con người một thời gian ngắn.
Mao cũng chẳng còn phải băn khoăn gì, công khai sống chung với Giang Thanh, gạo đã nấu thành cơm, tất cả đã là sự thật. Một nguyên nhân quan trọng là, giữa hai cuộc giường chiếu, bà ta cũng lắm chiêu trò, khiến Mao chưa bao giờ được thỏa mãn như thế. Những người như Đào Tư Vịnh, Dương Khai Tuệ, Hạ Tử Trân, Ngô Quảng Huệ không thể nào so sánh được với Giang Thanh.
Mao tự nhận bản thân có tướng hổ lại có tướng khỉ, tướng hổ là chủ yếu. Về chuyện Giang Thanh đã thể hiện đầy đủ tướng khỉ của Mao. Ông ta không vì một người đàn bà mà làm công chúng phẫn nộ, phải làm tốt mọi mặt công tác, thậm chí phải thỏa hiệp một vài bước. Người đẹp mất có thể có người đẹp khác, đất nước mất thì không thể lấy lại. Không thể vì Giang Thanh mà ảnh hưởng đến địa vị “lãnh tụ tối cao”. Cuối cùng, Hạ Tử Trân vẫn là vợ danh chính ngôn thuận, được các tướng lĩnh, binh lính Hồng quân đồng tình, quí mến.
Ít lâu sau, Chu Ân Lai điều trị vết thương từ Liên Xô trở về. Chu là con người thẳng thắn, không nể nang Giang Thanh, vẫn tác hợp Giang Thanh với Mao. Thêm vào đó, đứng sau là “Khang bộ trưởng” hiến kế, vạch đường chỉ lối đối với Mao, mời Chu Ân Lai làm công tác với Hạ Long, để Lưu Thiếu Kì thuyết phục ông bạn đồng hương Bành Đức Hoài Phó Tổng tư lệnh, để mấy vị Trương Văn Thiên, Chu Đức, Nhiệm Bật Thời thuyết phục các vị Bác Cổ, Hà Khải Phong giảm bớt những lời trách móc, chỉ trích. Bản thân Mao chịu hạ mình, đồng ý để Bộ Chính trị đưa ra ba điều cấm đối với Giang Thanh:.
1. Giang Thanh không được coi mình là vợ Mao;
2. Giang Thanh chỉ có thể làm những việc chăm sóc Máo, không được tham gia các hoạt động chính trị trong nội bộ Đảng;
3. Đây là quyết định cuối cùng. Các đồng chí trong đảng phải nghiêm chỉnh chấp hành..
Nghe nói, những qui định của Bộ Chính trị là thắng lợi của Bác Cổ, Hà Khải Phong, là một lần kỉ luật cảnh cáo đối với Mao. Mao và Giang Thanh cũng kí vào bản qui ước đó. Lúc bấy giờ họ chỉ mong được ở bên nhau, còn nữa không cần. Hoặc Mao và Giang Thanh đã hiểu lòng nhau, đã thỏa thuận ngầm, tất cả chờ thời cơ. Ân ân oán oán mãi tận hai ba chục năm sau mới có cơ trả thù. Đáng tiếc, Bác Cổ, Hà Khải Phong đã chết; bị trả thù nặng nhất là Bành Đức Hoài và Hạ Long.
9. Bí mật của Phùng Phượng Danh
Giang Thanh được sống hợp pháp bên Mao, có được vị trí đẹp như mơ, bà ta thực sự cảm ơn “Khang bộ trưởng” người đồng hương. Trong câu chuyện lớn trăm năm này, bà ta và Khang Sinh thực sự cần nhau, được trời tác hợp. Từ đấy về sau, Khang Sinh được Mao tín nhiệm, ân sủng suốt đời. Mao có được trùm tình báo Khang Sinh để diệt trừ những người không cùng phe phái, thật sự ngon lành.
Thời kì đầu, Giang Thanh sống bên Mao luôn tỏ ra chăm chỉ, thận trọng. Về mặt đời sống, luôn chăm sóc tận tình. Mao thích khiêu vũ, Giang Thanh trở thành cô giáo dạy Mao khiêu vũ. Mao thích thư pháp, Giang Thanh chuẩn bị bút nghiên và cùng học với Mao. Mao thích làm việc buổi tối, ban ngày ngủ, Giang Thanh cũng theo Mao đổi đêm thành ngày. Tất cả đều theo Mao, tất cả đều nghe lời Mao. Giang Thanh trở lại làm người con gái, bằng mọi cách để làm một người nội trợ hiền thảo.
Giang Thanh biết Mao là con người háo sắc, lo nhất là Mao yêu người khác. Trước những chuyện đau đầu như vậy chỉ có thể nhờ người khác chỉ bảo, dựa dẫm, lại là “Khang bộ trưởng”. “Khang bộ trưởng” dạy người không biết mệt.
- Vân Hạc, cô gái đỏ của tôi, coi như đã xong chuyện. Xem cô từ nay về sau có giúp Chủ tịch xây dựng một gia đình hòa thuận hay không?
- Thưa thầy, em không nắm vững… lòng dạ đàn ông, chủ nghĩa li nước, dễ thay đổi…
- Để giữ vững lòng dạ đàn ông, nói dễ cũng dễ, nói khó cũng khó.
- Thưa thầy, thầy dạy…
- Cô là con người thông minh. Năm trước, cô đến hỏi tôi lần thứ hai, coi như trúng ý rồi chứ?
- Xin thầy đừng đùa, hôm nay em có chuyện này…
- Đúng! Trong đầu tôi đang nghĩ một câu. Chủ tịch bận trăm công nghìn việc. Đúng vậy không? Trong sinh hoạt cá nhân có chuyện gì đặc biệt, cô cố gắng thỏa mãn Chủ tịch, đừng làm khó… Lúc nào cũng tươi cười, dịu dàng, chỉ thế thôi. Cô phải làm một người nội trợ rộng rãi, biết tha thứ. Vợ chồng dài lâu không được ghen tuông, không được theo bước Hạ Tử Trân.
- Ý của thầy là…
- Lúc cần thả lỏng phải thả lỏng… Vân Hạc, cô thông minh lắm, không cần tôi phải nói rõ.
Giang Thanh đã hiểu. Bà ta cung kính gật đầu, rất cảm kích và kính trọng ông thầy Khang Sinh. Hèn chi thời nhỏ đã nghe các bậc cao niên lối xóm vẫn nói “hoa nhà không thơm bằng hoa dại”, “tay bưng bát, mắt nhìn nồi”, “bé ngoan, cha mẹ tốt”…
Những ngày này Giang Thanh thấy Chủ tịch không như những anh hùng phàm tục, quân cơ đại sự, chỉ lối đưa đường, chuyện trai gái yêu đương, tình dục cực mạnh. Mao mới bốn mươi tuổi, cái tuổi mạnh như hổ, như sói. Thầy Khang Sinh dạy Giang Thanh tư tưởng phải thông suốt, không vì người con gái khác mà làm ầm ỹ với Chủ tịch, như vậỵ mới duy trì được tình nghia vợ chồng dài lâu, giữ vững quan hệ hôn nhân. Từ năm mười bốn tuổi, Giang Thanh đã biết phản đối lễ giáo phong kiến, phản đối nam tôn nữ ti. Thân xác của bà ta là vũ khí. Chủ nghĩa của bà ta là, đàn ông chơi gái được, lẽ nào đàn bà không chơi trai? Không ngờ, đến Diên An, leo lên cành cao, làm phượng hoàng, cuối cùng không thoát khỏi bàn tay phu quyền phong kiến. .
Giang Thanh là người hiểu rất rõ sự lợi hại của quan hệ. Cái bà ta đã có hôm nay, dù đánh đổi bao nhiêu cũng không thể mất. Vậy là bà ta để tỏ ra mình ung dung cởi mở khác hơn những người đàn bà trước đó của Máo, một mặt vẫn tốt với Mao, làm một việc mà Mao rất thích thú.
Hồi ấy, ở Diên An có một viện nghiên cứu bình kịch. Viện này ít diễn bình kịch, mà diễn ca kịch, kịch nói, kinh kịch.. Cách mạng yêu cầu, mà các vị trung ương mỗi vị một ý thích, không diễn một thứ. Giang Thanh cũng đã từng biểu diễn ở viện bình kịch. Trong viện có mấy diễn viên nổi tiếng, Quách Lan Anh, Tôn Duy Thế, Trương Tỉnh Phương, Phùng Phượng Danh đựợc gọi là “tứ đại mĩ nữ”, trong đó Phùng Phượng Danh là mĩ nữ số một.
Phùng Phượng Danh vốn là thiên kim của một đại gia Hoa kiều ở Indonesia, từ nhỏ đã được giáo dục tốt, trời sinh người đẹp, tính tình cao sang. Là một thanh niên Hoa kiều yêu nước, vì căm thù quân Nhật tàn bạo, cô về Quảng Đông tham gia kháng Nhật.. Đầu tiên, cô vào đội quân kháng Nhật ở Đông Giang do Đảng lãnh đạo, được học tập, huấn luyện trong một trường cán bộ, về sau được đưa đi Diên An để “đào tạo thêm” Vì trẻ đẹp, lại có tài hát xướng, đến Diên An lúc đầu vào học ở Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn, được phân công về làm diễn viên trong viện bình kịch.
Giang Thanh là giảng viên ở “Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn, cho nên hai người biết nhau từ lâu.
Giang Thanh đã cùng Mao xem Phượng Danh biểu diễn mấy lần, ví dụ các vở “Lâm Xung bỏ chạy ban đêm”, “Ba lần đánh thôn Trúc Gia”., Phượng Danh trong các vai phụ, không có gì nổi bật, cho nên Mao không mấy ấn tượng. Một hôm, hai người đến học viện nghệ thuật Lỗ Tấn để xem vở dân ca kịch ba màn “Khúc nông thôn” do Hiển Tinh Hải biên đạo. Phùng Phượng Danh thủ vai chính trong vở diễn này.. Giọng hát uyển chuyển,, rõ ràng, ngọt ngào, hát và múa đều rất hay. Nhất là khuôn mặt và thân hình khó mà quên nổi. Giang Thanh chú ý, Mao xem tỏ ra mê mẩn, hết lời khen ngợi: “Phượng Danh, Phượng Danh, cô này diễn còn hay hơn Quách Lan Anh. Lan Anh diễn gì cũng giống nhau, rất tuyệt, Phượng Danh diễn gì đều giống như vậy.”
Giang Thanh mắt nhìn, bụng đã rõ. “Chủ tịch” đúng là người biết thưởng thức người đẹp. Trong lòng Giang Thanh đã sôi lên rồi, Nhưng lại nhớ lời dạy của thầy Khang Sinh, nhất định phải giữ bằng được người đàn ông vĩ đại, không để ông ta tuột khỏi tay.
Tối hôm ấy cùng xem còn có vợ chồng Chu Đức, vợ chồng Lưu Thiếu Kì, vợ chồng Lí Phú Xuân… Tan buổi biểu diễn, Giang Thanh kéo tay “chị cả Thái Sướng” vợ Lí Phú Xuân, mời đồng chí Phùng Phượng Danh đến vườn táo, nơi các vị lãnh đạo trung ương ở, cùng ăn đêm.
Phùng Phượng Danh cùng Giang Thanh và Thái Sướng ngồi xe đến vườn táo. Đây là nơi mà Phượng Danh lần đầu tiên đến. Bình thường, ỏ đây cảnh vệ canh gác nghiêm ngặt, ngay cả các cán bộ Hồng quân lão thành nếu không được mời cũng không được vào. Họ vào ăn đêm ở nhà ăn nhỏ của các vị thủ trưởng trung ương. Các vị lãnh đạo trung ương đều vui vẻ chuyện trò với Phượng Danh, khen cô diễn rất hay. Mao ngồi đối diện với cô ta, vừa ăn vừa nhìn cô, chỉ thị một vài điều đối với Viện bình kịch. Giang Thanh đặt đũa xuống, hí hoáy ghi chép vào sổ tay, để có cơ hội sẽ truyền đạt lại. Phượng Danh chỉ chú ý “Chủ tịch” rất thích ăn cay, trong thức ăn, trong canh ởt đỏ rực. Ăn xong, các vị thủ trưởng và phu nhân, đám trẻ con đều về, Giang Thanh cũng không biết biến đi từ lúc nào. “Chủ tịch” mời Phượng Danh sang phòng bên cạnh để đàm đạo về văn nghệ, hứa lát nữa sẽ cho xe đưa về. Phượng Danh ngoan ngoãn nghe lời, sang một phòng rộng lớn của căn nhà hầm, trong phòng ấm áp, vẫn không thấy Giang Thanh đâu. Hai cánh tay chủ tịch ôm lấy Phượng Danh, sờ mó khắp người cô ta, mặc cô ta bất lực giãy giụa… Rồi cô cũng thôi không chống cự, mặc cho “vĩ nhân” cởi hết quần áo cô ta ra. Nhân vật mà hàng ngày cô vẫn kính trọng, yêu mến lúc này ngỏ lời yêu cô, muốn cô, thích cô, khiến tinh thần, thể xác cô khó mà từ chối nổi. Cô trở thành bức thành bỏ ngỏ, không biết những người con gái khác gặp trường hợp này thì thế nào? Tất cả đều nghe theo ư?
“Chủ tịch” vẫn thường gọi các cô gái trẻ ở “Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn” đến đàm đạo về nghệ thuật. cũng đều thế này ư? Chị hai Giang Thanh chấp nhận ư? Tất cả sẽ trở thành những người như thế nào?
Sau đấy, Phượng Danh vô cùng căm giận, đau khổ.. Lí tưởng mà cô theo đuổi suốt đời cũng bị giao động, lung lay. Cô bắt đầu hoài nghi tất cả những gì ở Diên An, ở thế giới này. Vì cô là người con gái kiên nghị, ngay thẳng. Dù là lãnh tụ hay vĩ nhân cũng không thể để cô đem lòng yêu mến, đừng nói gì đến chấp nhận. Về sau, cô mất tích khỏi Diên An một cách bí ẩn. Có người nói “Bộ trưởng trừ gian” Khang Sinh đã thủ tiêu cô với tội danh “đặc vụ từ nước ngoài thâm nhập”. Có người nói cô ra nước ngoài, không biết đi đâu. Kết thúc của cô cho đến nay vẫn là một bí mật. Có người nói, cô để lại một cuốn nhật kí ghi lại cuộc sống của cô ở Diên An. Thậm chí ở Hồng Công có người tìm được cuốn nhật kí đó, chỉnh lí và xuất bản thành cuốn sách “Thời đại điên cuồng”, cuốn sách ồn ào dư luận một thời.
10. Tôn Duy Thế đáng yêu
Sau khi sống chung. Giang Thanh không còn lúc nào cũng quấy rầy Mao về những chuyện vặt vãnh, khiến Mao tập trung cho công tác Đảng, trổ hết quyền cước trong Đảng, phân hóa địch ta. Từ năm 1941, Mao có quan hệ thân mật với Lưu Thiếu Kì, để Lưu Thiếu Kì làm “Đại diện đường lối đúng đắn ở khu trắng”, còn bản thân Mao là “Đại diện đường lối đúng đắn trong khu Xô viết”, hình thành sự liên minh hai thế lực lớn. Mao dựa vào Bành Đực Hoài, Lâm Bưu, Lưu Bá Thừa, Nhiệm Bật Thời, La Vinh Hằng, nắm vững Chu Ân Lai, Chu Đức, Hạ Long, Nhiếp Vinh Trăn, trung lập Trương Văn Thiên. Trần Nghị, Lưu Chí Đan, Cao Cương, Từ Hướng Tiền; cô lập Trương Quốc Đào, Vương Minh, Bác Cổ, Hà Khải Phong. Đến năm 1942, bắt đầu cuộc vận động chỉnh phong Diên An nổi tiếng, trong Đảng triệt tiêu đường lối của Trương Quốc Đào, Vương Minh,
Lúc này, trong tay Mao có hai quân át chủ bài, thứ nhất là nắm chức chỉ huy tối cao quân đội, thứ hai là thông qua Khang Sinh khống chế chặt chẽ hệ thống tình báo bảo vệ. Mao là tay cao thủ phát động những cuộc vận động chính trị nội bô Đảng, những cuộc vận động lớn lồng ghép với vận động nhỏ, cuộc “vận động chỉnh phong Diên An” lồng ghép với “vận động trừ gian nội bộ” và “vận động cứu vớt cán bộ”. Mục đích của những cuộc vận động này là vặt sạch vây cánh thân tín của Trương Quốc Đào, Vương Minh, Bác Cổ. Khang Sinh là một tay Béria (1), thừa lệnh Mao, cố tình mở rộng diện trừ gian, cho tất cả những thanh niên yêu nước tìm đến Diên An vào một rọ “nội gián”, đánh đập, tra khảo, bức cung, khiến cho Diên An một thời náo loạn, ai cũng khiếp sợ. Cho đến năm 1944, Mao thấy vây cánh của Trương Quốc Đào và Vương Minh đã bị vặt tương đối sạch, Trương Quôc Đào bỏ chạy, Vương Minh, Bác Cổ cúi đầu nhận tội, mới ra lệnh dừng cuộc “vận động trừ gian nội bộ”. Mao triệu tập đại hội, bản thân đứng ra xin lỗi các đồng chí bị hiểu nhầm, bị bắt giam, bị tra khảo, đánh đập, một mặt dẹp yên sự phẫn nộ của quần chúng, tranh thủ lòng người, mặt khác, bao che cho Khang Sinh thoát tội.
Năm 1945, Lưu Thiếu Kì lần đầu tiên đề xướng “lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm phương châm công tác trong toàn Đảng”; còn Mao Trạch Đông thì ra sức cổ vũ cuốn sách “Bàn về sự tu dưỡng của người đảng viên Cộng sản” của Lưu Thiếu Kì, lấy đó làm sách giáo khoa, mọi đảng viên đều _____________
(1) Béria, Bộ trưởng Bộ Công an Liên Xô dưới thời Stalinephải học. Vậy là, sau Đại hội lần thứ sáu “của Đảng (họp tại Mạc Tư Khoa năm 1928), tròn mười bảy năm, Đảng Cộng sản Trung Quốc mới họp đại hội lần thứ Bảy (1945). Đây là đại hội ca tụng công đức, sùng bái Mao, Mao được đẩy lên vị trí “lãnh tụ tối cao” của Đảng, kiêm nhiệm các chức vụ: “Chủ tịch” Bộ chính trị trung ương Đảng, , “Chủ tịch” Ban chấp hành trung ương Đảng, , “Chủ tịch” Ban bí thư trung ương Đảng, “Chủ tịch” Quân ủy trung ương, “Chủ tịch” Bộ biên tập báo chí của Đảng, Mao nghiện chức “Chủ tịch”. Từ đấy, Mao bắt đầu sự thống trị độc tài, thâu tóm đại quyền, tiểu quyền cũng không chia cho bất cứ ai.
Năm 1946, có sự trung gian hòa giải của Mĩ, hai đảng Quốc Dân và Cộng sản đàm phán, hiệp thương dân chủ, xây dựng đất nước. Mao đáp máy bay đến Trùng Khánh, ở lại đấy hơn bốn tháng trời, cùng Tưởng Giới Thạch kí Hiệp định “song thập” (Mùng mười tháng Mười). Nhưng chỉ mấy tháng sau, hiệp định bị xé bỏ, bắt đầu cuộc nội chiến. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, tại Bắc Kinh, Mao tuyên bố thành lập “nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, Trung Cộng giành quyền thống trị đại lục.
Từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc một đảng theo chủ nghĩa Mác -Lênin do Liên Xô xuất tiền, xuất người, xuất súng đạn, sau khi giành chính quyền, tất nhiên phải coi Liên Xô là “ông anh cả”, về ngoại giao, về chính trị phải học tập, làm theo ông anh cả Liên Xô, “nhất biên đảo” (Ngả về một bên). Tháng 12 năm 1949, Mao đích thân dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng sang Mạc Tư Khoa bái kiến và hội đàm với Staline. Phó trưởng đoàn là Thủ tướng Chu Ân Lai.
Mao và Chu cùng các đoàn viên trong đoàn đáp tàu hỏa riêng, xuất phất từ Bắc Kinh, đi qua vùng bình nguyên Hoa Bắc, Đông Bắc, qua Mãn Châu Lí, từ đấy băng qua thảo nguyên Xibia rộng lớn. Toàn bộ hành trình phải mất sáu ngày sáu đêm. Người phiên dịch cho doàn là Tôn Duy Thế - một trong bốn đại mĩ nữ trong Viện Bình kịch ở Diên An thời trước - sau đấy cô được đưa sang Mạc Tư Khoa học tiếng Nga. Năm 1949 tốt nghiệp, cô về nước, lúc này đã là một cô gái xinh đẹp mới ngoài hai mươi tuổi. Tôn Duy Thế là con gái nuôi của Chu Ân Lai.
Trên chuyến tàu đặc biệt đi Mạc Tư Khoa, Tôn Duy Thế tạm thời làm cô giáo dạy tiếng Nga cho Mao. Nhưng Mao, một người biết rất nhiều thơ ca cổ của Trung Quốc, rất điêu luyện “quyền thuật cung cấm” của các đế vương Trung Hoa, nhưng học ngoại ngữ thì dốt đặc. Thời kì còn học trung học, Mao chưa hề đỗ tiếng Anh; thời kì ở Diên An, tuy được Smedley, Ngô Quảng Huệ dạy mãi cũng không vào. Sau đấy, bên cạnh Mao luôn có một thư kí Anh văn. Đến cách mạng văn hóa thì Mao đã lớn tuổi, vẫn do các người đẹp Đường Văn Sinh, Chương Hàm Chi dạy tiếng Anh cho ông ta. Có thể nói ông ta suốt đời học tiếng Anh, nhưng suốt đời cũng giống như Giang Thanh, không phân biệt nổi sự khác nhau giữa Good evening và Good nigth.
Nước đến chân mới nhảy, sắp bái kiến đại nguyên soái Staline vĩ đại mà vẫn không biết tiếng Nga nói “đồng chỉ” “chào buổi sáng”, “chào buổi tói”… thế nào! Tôn Duy Thế ngây thơ lãng mạn, đành làm cô giáo bất đắc dĩ, kiên nhẫn dạy từng chữ cho Mao.
Đường dài, thảo nguyên mênh mông, phong cảnh nước Nga, hàng ngày Mao cùng với Chu Ân Lai và các chuyên viên về Liên Xô hội họp một lần nghiên cứu những vấn đề trong quan hệ hai đảng, hai nhà nước, ví dụ vấn đề quân đội Liên Xô rút khỏi vùng Đông Bắc Trung Quốc, Liên Xô trả lại con đường sắt cho Trung Quốc, vấn đề cho Liên Xô thuê quân cảng Lữ Thuận, vân vân. Thời gian còn lại, Mao ở trong toa tàu vừa làm thư phong vừa là phòng ngủ, được người đẹp Tôn Duy Thế dạy tiếng Nga. Một buổi tối, Mao cầm bàn tay mềm mại của Tôn Duy Thế, tâm thần bất định, tỏ vẻ buồn bã.. Với tấm lòng của người con gái, với thân phận là lớp người đi sau, Tôn Duy Thế vốn rất kính trọng “lãnh tụ vĩ đại”, liền hỏi “Chủ tịch” có điều gì không vui. “Chủ tịch” thở dài, dần dần thổ lộ những bất hòa với Giang Thanh. Lúc Giang Thanh mới sống chung với Mao tỏ ra rất tốt, nền nếp, biết điều, nhưng sau mấy năm làm vợ hiền, mẹ tốt… vài năm nay, vì đã lên phu nhân, địa vị được tôn quí, quên bổn phận, hiện rõ bản tính, tai quái, ngang ngược, động một tị là khóc lóc ầm ĩ, dọa chết, cãi nhau liên tục. Hạ Tử Trân về Thiên Tân, không được lên Bắc Kinh. Gần đây bác sĩ phát hiện Giang Thanh có khối u trong tử cung, sẽ đi Mạc Tư Khoa, nhờ bác sĩ Liên Xô phẫu thuật. Quan hệ vợ chồng ngày một nhạt nhẽo. Bản thân ông ta thì một lời nói, một chữ viết ra cũng là đại diện cho toàn đảng, toàn quân bởi vậy rất buồn, thiếu một người bên cạnh…
Tôn Duy Thế là một người con gái thật thà, giàu tình cảm, nghe những lời thổ lộ của “Chủ tịch” kính yêu, cô vừa ngượng vừa đồng cảm. Cô đã được ngồi trên lưng ngựa, được các chiến sĩ Hồng quân cõng trên lưng, đi suốt cuộc trường chinh vạn dặm. Cô chịu ảnh hưởng của các cô, các chú Hồng quân, rất đồng cảm với Hạ Tử Trân, rất ghét Giang Thanh. Lúc này nghe “lãnh tụ vĩ đại” thổ lộ tâm tình, bất chợt cô nắm chặt bàn tay. Nhân vật vĩ đại cũng có chuyện buồn phiền và bất hạnh ư? Lúc tấm thân vĩ đại kia dựa vào người cô, cô cũng để yên, có điều tim thì đập loạn nhịp. Cô ngước đôi mắt sáng lên nhìn “Chủ tịch”, hai má hồng như trái táo, hình như nói: thưa “Chủ tịch”, “Chủ tịch” đã từng chỉ huy thiên binh vạn mã, đã giành được cả giang sơn, thế mà vẫn không xử lí được chuyện riêng tư… “Chủ tịch” chớp chớp mắt, nhìn cô gái. Mắt ““Chủ tịch”” sáng lên, đôi mắt khá đẹp, Bỗng Tôn Duy Thế đứng dậy, định về toa tàu của mình, nhưng “Chủ tịch” nắm chặt tay cô, không chịu buông, bảo cô ngồi chơi một lúc nữa, đừng về, đừng về., còn nhiều chuyện chưa nói, còn nhiều chuyện nữa, có thể bàn thảo… Tay “Chủ tịch” rất ấm, dịu dàng. Lò sưởi trong toa tàu cũng rất ấm… Cô gái bỏ chạy nhanh ra cửa toa xe. Nhưng không biết cửa đã khóa từ lúc nào, không tài nào mở ra nổi… chỉ còn nghe tiếng xình xịch của bánh sắt con tàu nghiến trên đường ray, tiết tấu đều đều… Đôi cánh tay “Chủ tịch” ôm ghì lấy cô, sờ nắn khắp người cô. Toàn thân cô run rẩy, mềm nhũn… Hơi ấm trong toa tàu thật dễ chịu, trên người cô chỉ mặc mỏng manh. Cô mê man, như đang nằm mơ. Giấc mơ đau khổ hay là giấc mơ vui vẻ? Một người con gái biến thành đàn bà!
Tối hôm ấy, Tôn Duy Thế cứ đê mê, mơ hồ dâng hiến tấm thân trinh trắng cho “lãnh tụ vĩ đại”. Ông ta còn ngạo mạn khinh đời, buông một câu “Ba chiến dịch lớn, cùng lên tiên cảnh”. (Ý nói làm tình ba lần, khoái cực điểm).
Sáng sớm hôm sau Tôn Duy Thế mới biết mình đang ngủ trên giường của ai, đã xảy ra chuyện gì. “Nhân vật vĩ đại” đang ngáy, tiếng ngay thật to khác thường. Cô vội mặc áo quần. Toàn thân đau nhức, ê ẩm, hai đùi như bị thương, đi đứng khó khăn. Tối hôm qua cửa không sao mở được, lúc này mở rất nhẹ nhàng, cô chạy ra ngoài…
Cách một toa tàu là phòng làm việc kiêm phòng ngủ của bố nuôi Chu Ân Lai. Cửa phòng của bố đã mở. Bố đang ngoảnh mặt ra phía cửa sổ có những cảnh tuyết trắng trên thảo nguyên, tập thể dục buổi sáng. Tôn Duy Thế gục đầu vào lòng bố, khóc lóc đau khổ. Bố không biết chuyện gì đã xảy ra với con gai, ông liền đóng cửa lại, hỏi con gái, hồi lâu sau con gái mới nức nở , ấp úng kể lại chuyện đêm hôm qua.
- Không còn ra thể thống gì nữa! Không còn ra sao! Con gái tôi là lớp cháu con, con nuôi của Hồng quân, vậy mà ông ta cũng làm cái chuyện đó!
Bố tức giận giẫm chân, mặt tái nhợt. Ông dùng tiếng phổ thông chuẩn nói mấy câu. Nhưng Tôn Duy Thế thông minh hơn người, điều cô sợ nhất là làm bố phải bực tức. Từ nhỏ cô đã yêu mến bố mẹ có công nuôi nấng cô khôn lớn. Cô cũng hiểu được rằng, việc của mình bố cũng chỉ nén giận trong lòng, liệu bố còn biết nói gì hơn?.Làm ầm ĩ, phản đối, đi vạch mặt ông ta ư? Từ năm 1936, sau khi đến Thiểm Bắc ít lâu, bố giao binh quyền cho “Chủ tịch”, bản thân làn trợ thủ, làm phó, tất cả đều vì đại cục, một đời phục vụ đại cục
Đối với con gái, Chu Ân Lai chỉ biết đau lòng, chỉ biết khuyên nhủ, nhịn nhục, chịu tổn thương tinh thần. Suốt hai ngày trời, mặt Chu Ân Lai giận dữ tím tái nhưng vẫn làm việc bình thường, không ai biết đã có chuyện gì xảy ra. Rất may, chuyện ấy cũng không ảnh hưởng đến quan hệ giữa Chu Ân Lai và Mao. Từ Mạc Tư Khoa trở về, Mao cũng nghĩ đến lấy Tôn Duy Thế, nhưng vợ chồng Chu Ân Lai đã từ chối khéo, lí do là bản thân Tôn Duy Thé không đồng ý. Hơn nữa, chuyện của Hạ Tử Trân vẫn chưa giải quyết, không thể lấy nhau được, bây giờ lại thêm một Tôn Duy Thế nữa hay sao? Mao đúng như Hàn Tín dụng binh, không sợ phiền hà. Mao vẫn thường nói, con gái lớn không nên để mãi trong nhà. Sau đấy ít lâu, vợ chồng Chu Ân Lai chủ trì, gả con gái nuôi cho Kim Sơn, một nhà nghệ thuật sân khấu nổi tiếng. Kim Sơn những năm 1930 ở Thượng Hải cũng đã có cuộc vui chăn gối với Gang Thanh, cũng coi như sự báo ứng, ngang nhau.
Năm 1950, Giang Thanh sang Mạc Tư Khoa phẫu thuật cắt bỏ tử cung. Bà ta rất sợ mình trở thành một Hạ Tử Trân thứ hai, bị bỏ rơi ở Liên Xô, không thể về nước. Bà ta chỉ có với Mao một cô con gái, đặt tên là Lí Nạp. Bà rất muốn có với “Chủ tịch” một cậu con trai, nhưng không thể. Tất nhiên, sau khi Mao trở thành “lãnh tụ vĩ đại”, cả nước trên dưới cùng nhìn vào, không thể không kiểm điểm hành vi của mình, phải “gương mẫu” mọi mặt. Cho nên, Giang Thanh may mắn gấp nhiều lần Hạ Tử Trân, chỉ ít lâu sau đó được về Trung Nam Hải. Nhưng không may là, sau khi mổ cắt bỏ tử cung, sinh lí có sự thay đổi, chuyện sinh hoạt vợ chồng giảm dần không nói làm gì, bà ta còn bị rụng tóc, teo vú! Lúc bấy giờ bà mới ba mươi sáu tuổi!
Giang Thanh vô cùng sợ hãi. Càng ngày càng không thể kiểm soát nổi tính tình, thường xuyên nổi cáu. Tất nhiên máu ghen càng ngày càng bốc cao. Bà ta biết rằng, bản thân không có danh phận, địa vị gì trong Đảng, không ai coi bà ta ra gì, một khi Mao bỏ rơi, bà ta sẽ trở thành mảnh giẻ rách.
Cho nên, bà ta rất hận tiểu yêu tinh Tôn Duy Thế. Chuyện của Mao và Tôn Duy Thế đến tai bà ta. Tôn Duy thế trẻ, đẹp, thế hệ sau, giỏi ngoại ngữ, tốt nghiệp đại học Mạc Tư Khoa, lại là cô gái ai trông thấy cũng yêu quí. Hơn nữa, Chủ tịch có máu thi sĩ, rất lãng mạn đối với gái đẹp. Nếu chỉ trăng hoa, chơi bời một đêm sẽ không đe dọa vị trí của Giang Thanh, bà ta có thể làm ngơ. Một vị quân vương cần tìm khoái lạc cứ để mặc ông ta tìm khoái lạc.
Nếu Tôn Duy Thế trở thành mối đe dọa thì rất có thể thay thế vị trí bà ta bất cứ lúc nào.
Nhưng trải qua những năm tháng khổ cực ở Diên An, Giang Thanh cũng học được nhiều điều, bà ta biết rằng Mao cũng phải chú ý đến danh tiếng. Đáng tiếc, sư phụ Khang Sinh về quê làm Bí thư tỉnh ủy Sơn Đông. Vấn đề Tôn Duy Thế là ở bố nuôi Chu Ân Lai và chị cả Đặng Dĩnh Siêu. Vạy là Giang Thanh trông cậy ở chị cả Đặng Dĩnh Siêu, đến nhà Chu Ân Lai khóc lóc thảm thiết. .
Chu Ân Lai có thể nói với Giang Thanh điều gì? Tất cả phải vì đại cục, vì uy tín của “Mao Chủ tịch”, vì uy tín của Đảng. Cách duy nhất là cho Tôn Duy Thế lấy chồng, coi như xong.
Giang Thanh không sao quên nổi Tôn Duy Thế, bà ta phải cắn răng chờ thời.. Hơn nữa đành để “Chủ tịch” chơi bời, thỉnh thoảng đấu tranh với Chủ tịch những chuyện nho nhỏ, đòi quyền đòi chức, lấy đấy để thỏa hiệp với nhau.
Sự thỏa hiệp lớn nhất của Giang Thanh đó là mùa Hè năm 1958, chấp nhận để Trương Dục Phượng, mới mười chín tuổi, quê ở Cáp Nhĩ Tân, làm y tá bên cạnh Mao. Còn Mao cho Giang Thanh thực thi quyền cước nhỏ trên vũ đài quyền lực trong Đảng.
Thời cơ đã đến! Mùa Hè năm 1966, Mao phát động cuộc “Đại cách mạng văn hóa của giai cấp vô sản” nhằm mục đích đánh bật Lưu Thiếu Kì một vị đệ nhất khai quốc công thần, bổ nhiệm Giang Thanh làm Phó Chủ tịch thứ nhất tiểu tổ Cách mạng văn hóa của Trung ương Đảng. Tổ trưởng là Trần Bá Đạt (Từ năm 1968 Giang Thanh thay Trần Bá Đạt làm Tổ trưởng), cố vấn là Khang Sinh. Mao dùng “tiểu tổ cách mạng văn hóa” để xóa bỏ quyền lực của Ban bí thư. Quyền lực của Giang Thanh làm nghiêng ngả đất nước. Ngay cả Thủ tướng Chu Ân Lai cũng phải kính nể.
Giang Thanh nắm trong tay đại quyền của Đảng, tất nhiên không quên những mối thù xưa. Giang Thanh liền liên kết đồng minh với Diệp Quần, vợ Phó thống soái Lâm Bưu, một con hổ cái sân sau quyền lực của Đảng, cùng nhau trao đổi danh sách kẻ thù, cùng giúp nhau trả những mối thù cũ.
Hàng loạt nhân sĩ kiệt xuất trong giới sân khấu – điện ảnh cánh tả trong những năm Ba mươi, có người biết lịch sử dơ dáy của tiểu thư Lam Bình, có người đã từng là ngôi sao thân thiết chung đụng xác thịt với bà ta, chỉ một đêm họ bị tống ngục, lần lượt chết một cách oan ức.
Chết thê thảm nhất phải kể đến Tôn Duy Thế. Tôn Duy Thế bị biệt giam trong một nhà tù ở Bắc Kinh, chịu đủ cực hình. Trong phòng giam chỉ có một đống cỏ khô, bị lột hết áo quần, toàn thân đầy những thương tích, đơn độc rời khỏi thế giới này. Lúc ấy, Tôn Duy Thế mới hơn ba mươi tuổi.
Tất cả sai lầm của Tôn Duy Thế chỉ là bị “lãnh tụ vĩ đại” đưa lên giường, phá trinh. Mà Thủ tướng Chu Ân Lai, người cha nuôi dưỡng cô khôn lớn, lúc bấy giờ đang giơ cao sách đỏ, đi đến đâu cũng tung hô: Học tập đồng chí Giang Thanh! Kính chúc đồng chí Giang Thanh!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét