Mùa Thu năm 1950, Đảng Cộng sản vừa nắm chính quyền chưa bao lâu thì bùng nổ chiến tranh Triều Tiên.
Mao Trạch Đông tiếp nhận thánh chỉ của Đại nguyên soái Staline, quyết định cử “Chí nguyên quân nhân dân Trung Quốc” ra nước ngoài chiến đấu, tranh hùng với quân đội Mĩ trang bị đến tận răng. Sẽ cử ai làm thống soái kháng Mĩ viện Triều? Thoạt đầu Mao định cử Đại tướng Tân tứ quân Lâm Bưu thân yêu ra trận. Lâm Bưu biết cuộc chiến quốc tế này lành ít dữ nhiều, đế quốc Mĩ chiếm ưu thế về hải quân và không quân, khó mà thắng nổi, liền cáo ốm ở nhà. Người thứ hai là Lưu Bá Thừa, người thứ ba là Trần Nghị. Hai vị này trấn ải Đông Nam, chuẩn bị vượt biển, đổ bộ lên Đài Loan. Hạ Long thì sao? Ở phía Tây Nam phỉ nhiều như cỏ, cũng đang chuẩn bị tiến quân vào Tây Tạng. Hơn nữa, Mao vẫn cảnh giác với Hạ Long và Trần Nghị. Hồi xưa ở núi Tĩnh Cương, Trần Nghị được sự giúp đỡ của Vương Minh, lộ mặt âm mưu chiến đoạt binh quyền. Hạ Long là thân tín của Chu Ân Lai, tính cách thổ phỉ vẫn còn đó. Mao tỏ ra sáng suốt hơn Lâm Bưu, ông ta nhận ra có Liên Xô quân lực, vật lực hùng hậu đứng đằng sau, chỉ cần Mĩ không ném bom nguyên tử thì có thể thắng trận này. Bởi ưu thế địa lí thuộc về ta. Trung Quốc và Triều Tiên chỉ cách nhau một con sông Áp Lục, Mĩ cách Triều Tiên một Thái Bình dương. La Vinh Hằng và Nhiếp Vinh Trăn thì sao? Xưa nay họ chỉ quanh quẩn trong Bộ Tham mưu, chưa bao giờ cầm quân tác chiến. Cuối cùng Mao chọn Bành Đức Hoài, Phó Tổng tư lệnh Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, đồng hương Tương Đàm với Mao. Bành Đức Hoài một lòng trung thành, công cao vọng trọng, dũng mãnh phi thường, có thể chỉ huy ba quân, uy hiếp kẻ địch.
Bành Đức Hoài xuất thân nghèo khổ, năm 1928 lãnh đạo đội quân nông dân Bình Giang, Lưu Dương kéo lên núi Tĩnh Cương, được phong chức Phó Tổng tư lệnh Hồng quân công nông Trung Quốc. Bành tính tình cương trực, chỉ biết dẫn quân đi đánh trận, không tranh quyền mưu lợi, là vị đệ nhất công thần, trung thần của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong nghiệp binh đao, mấy lần Mao suýt chết đều được vị Phó này cứu. Dân gian đại lục lưu truyền câu chuyện “bốn lần Bành cứu Mao”. Mao đã từng có thơ: Đường xa núi cao vực sâu thẳm/ Quân địch tung hoành trời đất/ Ai dám vung gươm trên lưng ngựa/ Chỉ có Bành đại tướng quân.
Nhưng suốt cuộc chiến Kháng Mĩ viện Triều, Bành Đức Hoài vào sinh ra tử, chỉ biết báo hiếu, không biết tự vệ, nhưng có ba sự việc làm phiền lòng “lãnh tụ vĩ đại”, theo đó ông bị phê đấu trong Hội nghị Lư Sơn năm 1959, bị tước hết mũ áo.