Đỗ Nguyên Thương
Khi cầm trên tay tờ lịch vừa bóc, thật ngẫu
nhiên, tôi bắt gặp câu thơ “Tờ lịch nào
cũng tờ lịch đầu tiên” trong bài thơ “Trước một tờ lịch mới” của nhà thơ
Nguyễn Hưng Hải. Thật thú vị vì đó là một cách nói khác so với triết lý “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”
của Heraclit.
Với niềm cảm hứng của một người yêu thích
thơ ca, tôi mải miết đọc thơ Nguyễn Hưng Hải và nhận ra rằng có những con người
chỉ một tập thơ hoặc một bài thơ đã thành danh và không thể sáng tác thêm được
nữa. Với Nguyễn Hưng Hải, chỉ một tập thơ Ban
mai chóng mặt (1990) đã thành danh nhưng anh còn tiếp tục, tiếp tục đến giờ
đã là 15 tập thơ (Như tôi được biết).
Điều đó phản ánh độ sung sức, nhưng trước hết, nó phản ánh niềm say mê, say mê
kết hợp cùng năng khiếu để đem lại cho đời những bài thơ, những vần thơ tinh
túy và giàu sức ám ảnh.
Có
lẽ trước hết nên bắt đầu từ tập thơ đầu tay Ban
mai chóng mặt, câu chữ giản dị, chất liệu mộc mạc, tứ thơ được kết nối từ
những kỉ niệm tuổi thơ, vừa như rất gần vừa như từ rất xa, xa lắm vọng về trong kí ức. Có những
kỉ niệm hồn nhiên như tuổi thơ của biết bao trẻ em nông thôn Việt Nam khác. Trước
đây, trong trang sách học trò, tôi đã từng biết đến tuổi thơ của trẻ em nông
thôn qua thơ Giang Nam: Xưa yêu quê hương
vì có chim có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/Mẹ bắt được chưa đánh roi
nào đã khóc.
Nay
tôi gặp trong thơ Nguyễn Hưng Hải cái độ thật thà chân chất của tuổi thơ qua những
buổi đi tắm sông bơi lội thỏa thích, nói cười thỏa thích bên triền sông có nắng,
có gió, có gốc cây si… có bạn bè cùng tồng
ngồng và loi ngoi bên mép sóng.
Cây si như vật chứng của bao thế hệ trẻ thơ. Trẻ thơ đùa vui thỏa thích, hòa
mình với thiên nhiên, sông nước rồi lại chơi bi ve và đuổi bắt con chim sáo đá.
Những sự thật: Mẹ
gọi đứt hơi/ Bố gọi đứt hơi/ Anh
chị gọi đứt hơi mà đứa trẻ không biết hoặc có lúc cố tình vờ
như không biết để mải mê chạy theo sở thích của tuổi thơ là điều có thật, một sự
thật phổ biến ở thôn quê chứ không của riêng ai, không của riêng nhân vật trữ
tình xưng tôi trong thơ Nguyễn Hưng Hải. Tác giả viết về tuổi thơ của mình
nhưng tôi tin chắc nhiều người tìm thấy bản thân mình trong thơ của anh. Như thế
tức là cái cá thể đã được nâng lên thành cái phổ quát? Mà không, phải nói chính
xác ra từ sự vật hiện tượng đã được khái quát hóa dù lời thơ rất bình dị, dễ
thương. Đọc thơ Nguyễn Hưng Hải tôi thấm thía lời tổng kết của nhà thơ - nhà
phê bình văn học Trần Đăng Khoa “Thơ hay
là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”. Khép lại trang thơ rồi mà tôi vẫn hình
dung tưởng tượng, vẫn thấy văng vẳng bên tại những âm thanh của câu chữ: Mẹ gọi đứt hơi/ Bố gọi đứt hơi/ Anh chị gọi đứt hơi/ tôi vờ vĩnh vì con chim sáo đá…
Không
chỉ thế, tuổi thơ của Nguyễn Hưng Hải còn Men
theo gốc rạ, còn đi cất vó bè… Những công việc cũng giản dị, quen thuộc và
có phần nhọc nhằn đối với trẻ thơ được tái hiện qua những hình ảnh có tính chất
nghệ thuật, dù câu thơ không cố tình trau chuốt, gọt giũa ngôn từ nhưng những
hình ảnh thơ được tái hiện lại đầy sức ám ảnh: khi bơi lội thì Chân đạp tứ tung từng giọt nắng, khi đi
học thì đội mũ rơm, Chiếc mũ rơm bện cả
cánh đồng; khi đi cất vó thì Tuổi thơ
dạng chân chèo cất nắng, động tác bơi lội quẫy đạp nước bắn lung tung thì
được chuyển thành đạp từng giọt nắng;
đi học thời kháng chiến đội mũ rơm thì được liên tưởng “ Chiếc mũ rơm bện cả cánh đồng”;
đi cất vó được gọi là “cất nắng”…
Không
rõ Nguyễn Hưng Hải yêu thích nghệ thuật mà tìm đến thơ, mà làm thơ hay trời
trao cho anh sứ mệnh làm thi sĩ vậy? Tôi cảm phục anh! Thật sự cảm phục và trân
trọng nhưng tôi không khỏi ngậm ngùi bởi dư âm buồn đã xuất hiện từ trong bài
thơ đầu tiên cho tới những bài thơ kế tiếp của tập thơ Ban mai chóng mặt.
Tại
sao: Người ta bảo tuổi thơ là hoa là
trái/ Tuổi thơ tôi rơi vãi chẳng ai
tìm?
Tại
sao người ta vẫn ước gì trở lại ngày xưa ? “ Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, Hãy nhớ ước muốn cho thời gian trở
lại ” thế mà Nguyễn Hưng Hải lại nói “ Tuổi thơ ơi xin đừng quay về”? Tại sao người ta hứng thú hướng
về nơi sung sướng, cực lạc thì Nguyễn Hưng Hải lại Thôi ngồi gom lại buồn muôn thuở, Vuốt những câu thơ rụng trắng thềm.
Tại sao Ngơ ngác đời tôi nhiều lỡ hẹn ? Đọc cả tập thơ anh, người ta dễ dàng
nhận thấy có tuổi thơ hồn nhiên và khờ dại (cũng
như bao người) nhưng rồi người ta cũng nhận thấy những câu thơ nhuốm gió bụi
cuộc đời.
Đọc thơ Nguyễn Hưng Hải, tôi có cảm nhận rằng
anh chỉ cần làm một tập thơ thôi! Thậm chí một vài bài thơ thôi, người đọc đã
nhận ra chân dung anh rồi đấy! Một tuổi thơ hồn nhiên nhưng đã biết buồn, một
tuổi thanh xuân căng tràn nhựa sống đã nhuốm những ngờ vực với cuộc đời.
Trải phong trần mưa nắng, thi sỹ lớn lên,
thi sỹ trưởng thành… câu thơ không còn hồn nhiên nữa, không muốn quay về tuổi
thơ dù nhiều thú vui, vui đến độ đi chơi quên lối về, bỏ qua cả lời mẹ gọi. Hiện
tại của người lớn thì sao? Con người thơ của người lớn có lẽ nên bàn về hai
khía cạnh con người thế sự và con người nhân sinh. Điều đó xin bàn rộng thêm
sang tập thơ Viết cho con gái.
Với con người thế sự, tôi bắt gặp trong
thơ anh lối suy ngẫm của Huy Cận khi đứng trước 18 vị La Hán chùa Tây Phương.
Các vị La Hán có đôi tai dài rộng để Cả
cuộc đời nghe đủ chuyện buồn thì cây chò nơi Đền Hùng của Phú Thọ
chúng ta cũng nghe đủ chuyện đời. Có
những nghịch lý được khái quát thành chân lý: Mưa, nắng tranh công mà lá xanh vẫn rụng/ Mưa rủn trời mặt đất vẫn khô
cong. Có những sự thật chát chua nghĩ thấy bạc lòng: ta ở phố về có người ra đón/ hết Tết người quê ra phố ai mời.
Hoài Thanh từng nói trong mỗi chúng ta đều
có một con người nhà quê. Nguồn gốc người Việt Nam là nhà quê thuần túy. Sau
này, đất nước nông nghiệp được đổi thay nhờ ngoại cảnh và xuất hiện thành thị (phố) để có điểm khác biệt với nông thôn
(làng). Nhưng đâu phải ai cũng nhớ về
nguồn gốc hay ai cũng biết trân trọng tình người, tình đời. Người phố về quê
thì làng quê đón tiếp niềm nở chân thành, nhất là những dịp lễ, tết. Nhưng lễ
qua, tết hết, người làng ra phố thành xa lạ. Chẳng thế mà người quê rất sợ con
gái mình ra phố về không còn là con gái Đi
người còn tiễn chân ra/ Về cha mẹ cứ tưởng là người đâu. Đàn ông sợ người
yêu ra phố về Hương đồng gió nội
bay đi ít nhiều như Nguyễn Bính đã từng khái quát.
Cuộc
sống của chúng ta hiện tại có biết bao điều đáng quý, đáng yêu nhưng cũng có những
điều vô lý vẫn từng diễn ra, có những cảnh quan liêu của cán bộ, quan liêu quá
dẫn đến vô cảm mà tác giả phải lên tiếng: Khi
đồng ruộng cạn khô ta không thể đứng nhìn/ vung tay mà có nước/ những cơn mưa của
trời không có được/ ta tự làm ra mưa/ Đừng có khoanh tay đứng đợi trên bờ/ những
cây lúa không thể nào đợi họp (Khi đồng ruộng hạn khô)
Có
những hình thức đang phô bày không che lấp được sự hiện diện của cốt lõi bên
trong, có những cuộc họp chi bộ mà Đảng viên không còn gương mẫu nữa, họp trong
hơi men, người đi họp giơ tay biểu quyết cho hợp với thông lệ mà không có chính
kiến, thậm chí không rõ mình giơ tay biểu quyết vấn đề gì: cuộc họp nào cũng kiểm điểm cũng nêu/sao
chưa hết đói nghèo con thất học.
Rồi những câu hỏi tiếp tục được đặt ra: Xóm làng đông sao chi bộ lèo tèo/ Tranh nhau
nói mà không ai chịu hiểu
Có lẽ vì một sự thật trớ trêu: Chi bộ xóm họp trong hơi men rượu/ Nói đâu
đâu toàn chuyện ở trên giời dẫn đến kết quả thay vì cho mùa màng bội thu,
dân làng no ấm là cảnh tượng “Nghị quyết
được mùa mà đồng trắng nước trong”. Còn gì chua chát hơn sự thật này nữa
không? Nguyễn Hưng Hải trải đời và chua chát với đời bởi những điều trái với
mong muốn, thậm chí trái luân thường đạo lý, trái lối sống truyền thống của dân
tộc vẫn hiện diện đây đó trong cuộc đời thường nhật.
Cuộc sống là thế! Có sự ồn ào, có sự ô hợp, có nỗi
buồn, niềm vui, có những cảnh trớ trêu, có thẳng ngay và lọc lừa gian dối, có “Ở
hiền gặp lành” và cũng có cả những dối gian trá hình chân thật...
Giọng thơ chua chát và đắng đót của Hưng Hải
xuất phát từ đâu? Không phải từ đố kỵ, tỵ hiềm ganh ghét mà từ lòng nhân ái thẳm
sâu. Vâng, nhân ái nên mới mong mọi điều tốt đẹp, mong hết cảnh nghịch lý, trớ
trêu. Và, bởi thế, con người thật của anh là con người nhân sinh giàu lòng vị
tha, nhân ái, yêu thương, chia sẻ với nhiều con người, nhiều cảnh đời, nhiều số
phận.
Anh đặc biệt yêu thương quê hương, làng
xóm nơi mình sinh ra và lớn lên, nơi gắn bó với tuổi thơ đói nghèo trong rơm rạ.
Anh kính trọng ông bà nội ngoại đôi bên, có hiếu với cha mẹ một đời lam lũ,
thương người vợ hiền tần tảo, thương con gái, con trai ngoan ngoãn thảo hiền.
Không chỉ yêu quê hương, anh em họ mạc, anh còn thể hiện tình thương yêu, sự
trân trọng, đồng cảm sâu sắc với những người đồng đội một thời khói lửa binh
đao, kề vai sát cánh, chung một chiến hào; thương người chiến sỹ năm xưa về với
đời thường còn nhiều vất vả trong cuộc mưu sinh của cuộc đời thường nhật “Ở cuối
đường Mai Sơn”, anh thương Cha con người
hát rong, thương những sinh linh trong nấm mồ vô chủ…
Không thể nào không trân trọng những vần
thơ về ông bà nội ngoại. Xưa kia, dân gian có câu: Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.
Nhớ ông bà là nhớ về nguồn cội: Con người có cố có ông/ Như cây có cội như
sông có nguồn.
Tuổi
thơ Nguyễn Hưng Hải được gần kề bà nội khá nhiều, được bà yêu thương, chăm bẵm.
Khi bà không còn nữa, kí ức của nhà thơ về bà đượm buồn mà đẹp biết bao, trọ học,
xa nhà thì mong cuối tuần về bên bà: Cả
tuần cháu nhớ thương bà/ Ngồi bên bậc cửa nhìn ra chân trời/Mẹ nghèo cháu được
bà nuôi/ Nước mắt chảy ngược đừng cười ngày xưa.
Anh thương bà ngoại, kính trọng bà ngoại bởi
nỗi bà sinh ra mẹ anh, chăm chút cho mẹ anh và các dì của anh nữa, họ đều lấy
chồng gần nhưng “Có thương mẹ đã mấy khi
ngủ cùng”. Anh ngậm ngùi trước tình cảnh mẹ mình đông con, chẳng có thời
gian chăm chút cho bà ngoại, thậm chí ốm đau bà ngoại lại phải chăm “Ốm đau bệnh tật chẳng đừng, Bà thương mẹ
cháu tay bưng tay chùi”. Và nhìn cảnh tượng đó, nhà thơ thêm thương mẹ,
thương bà của mình hơn: Thương bà, thương mẹ ở gần/ mà đôi khi mới một
lần thăm nom/ khổ vì mẹ cháu đông con/ biết thương bà khéo chẳng còn mà thương.
Không chỉ thương bà ngoại, anh còn có bài
thơ thể hiện tình yêu thương dành cho bố vợ, “Khóc bố vợ” với tấm tình và ước
nguyện chân thật tội nghiệp đến nao lòng: Nếu
có thật kiếp đời sau rễ cỏ/ xin đừng ai
bắt nợ bố tôi nghèo/ đồng năm xu không bán được mang theo/ mua sao nổi trần
gian rơm với rạ.
Với hai tiếng “cha tôi” ấm áp, ngọt ngào
mà thân thiện, gần gụi như tình cảm với cha đẻ chứ không phải cha vợ, Nguyễn
Hưng Hải thể hiện lòng thương cha vợ đã khuất, lại thương mẹ vợ cô đơn vò võ một
mình: Cha đi rồi/mẹ còn được với ai/ những
hoàng hôn xe thồ về ngõ hổng/ nhà mình thúng mủng cũng long đong
Và nhà thơ mong muốn: Nếu có thật cuộc đời sau cái chết/ cha hãy tìm gặp mẹ kiếp sau vui… Nếu
có thật chuyện kiếp sau trong cuộc đời, chắc rằng nằm sâu dưới ba thước đất,
người cha vợ của nhà thơ cũng mãn nguyện với đời. Cuộc sống còn nghèo, còn thiếu
thốn nhiều về vật chất nhưng tình người tình đời trĩu nặng, đằm sâu.
Nguyễn
Hưng Hải có rất nhiều bài thơ hay viết về mẹ. Chúng ta không thể cầm lòng khi đọc
những câu thơ như thế này của anh :
Con đầy ắp thị thành/Mẹ vẫn chỉ quê thôi/Sông Bứa mùa này như cái lạch/Bóng mẹ
đi như dấu hỏi trước chân trời. Viết về mẹ, anh đã chạm được đến thiêng
liêng của tình mẫu tử, của thân phận, kiếp người, của văn hóa khiến chúng ta cảm
động đến nhói lòng :Cả đời cúi mặt
chưa xong/Mẹ đi lui đến lưng còng còn
lui/Nhẹ nhàng đon mạ ấy thôi/Mà bao gồng gánh khóc cười đăm đăm/Tháng mười vui
với tháng năm/Nào ai gặt hái xa xăm có nhìn/Đồng quê bóng mẹ hút chìm/Chiều ba
mươi vẫn đi tìm mùa xuân.
Những vần thơ anh viết về cha cũng thật
giàu cảm xúc: Lúc về già cha lặng lẽ nhiều
hơn/ nhiều hơn những cơn ho, những đêm không chợp mắt/ nhiều hơn những lúc ngồi
một mình sợ các con bắt gặp/ có phải về già lại giống trẻ con không?
Dẫu biết “chưa phải người già chưa hiểu được
đâu” nhưng anh vẫn cảm nhận được rằng cha lặng lẽ ngồi buồn và suy tư vì: Lặng lẽ nhiều hơn vì cha hiểu trâu cày/Có đi
mãi vẫn không ngoài ô ruộng/Có đi mãi vẫn một đời cúi xuống/ Vẫn một đời nghé ọ
chẳng đâu nghe/ Lặng lẽ nhiều hơn vì cha hiểu tiếng ve/ Không át được mùa hè
cơn gió nóng/ Không no được một đời luôn rỗng bụng/Một đời buồn úp nặt vào cây
Cái sự
hiểu của người nhà quê nghèo cũng thật là chua chát lắm thay!
Có
phải sự chua chát được tổng kết từ nhỏ tới khi về già, suốt một đời lầm lụi,
nghèo khó hay không: Mồ côi từ thuở lọt
lòng/ Cha tôi bạc tóc vẫn không có gì/ Nuôi con bằng sắn thâm sì/Nuôi mình bằng
nỗi hoài nghi dân cày.
Thương cha, thương mẹ là đạo đức của người
con có hiếu, anh thể hiện tình thương yêu với người vợ thảo hiền qua một số bài
thơ, câu thơ. Trong đó, không thể không kể đến bài thơ “Đời lắm lúc phải đùa”.
Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được ngay trách nhiệm và tình thương anh
dành cho vợ “Không có buổi chiều nào ta
không lo cho em”, một năm có 365 ngày, có 365 buổi chiều và chiều nào cũng
lo cho vợ, vì lẽ gì vậy, không thể không tò mò. Và, đó cũng là cách thể hiện
tình cảm rất độc đáo, mang dáng nét riêng của Nguyễn Hưng Hải, không thể trộn lẫn
trong số ít các bài thơ tặng vợ trên thi đàn xưa, nay. Thi sỹ lo bởi nỗi: “nắng lo xơ mái tóc/ mưa lo bạc ấm mềm/ đường
đen đỏ ác - hiền đi kiếm sống/ suốt cả ngày nườm nượp ngỡ đi chơi.
Không chỉ lo nhan sắc vợ phôi phai theo
năm tháng vì những lo toan gánh vác việc gia đình, anh còn lo bởi nỗi đường phố
đông người, nhiều bất trắc. Lo bao nhiêu lại mong bấy nhiêu: Mong bụi bớt lầm/ Xe em không xẹp lốp/Bao lạng
lách, tạt sườn mong tránh được/Sao đã dừng còn bị húc đằng sau?
Mong thế dường như chưa đủ, anh còn: Mong bụi đường ở lại phía sau xe/Dừng trước
cửa đúng giờ/Như đúng giờ mỗi ban mai khóa cửa/Ta và em hai ngả kiếm cơm chiều?
Làm thơ là năng khiếu nhưng chỉ riêng năng
khiếu không đủ để làm thơ.. “Thơ là tiếng
lòng” không thương yêu, không lo lắng cho vợ không thể có được những câu
thơ giàu tình yêu thương như thế.
Không chỉ thương vợ, anh còn thương các em
gái “Đi lấy chồng xa”. Âu cũng là quy luật, lúc bé anh em tụ họp trong một nhà,
được đong đầy tình thương của cha mẹ qua mỗi giấc ngủ, qua mỗi bữa ăn. Cuộc sống
có thể còn khó khăn, đói nghèo về vật chất nhưng tình yêu thương luôn ăm ắp
tràn đầy. Lớn lên, con gái phải lấy chồng, sang nhà người khác, đó cũng là quy
luật nhưng sao không thể ngậm ngùi khi chia xa, mong nhớ: Đầu còn những trấu
cùng tro/Nhà mình thì bỏ, đi lo nhà người/Nhớ em đũa
mẹ hay rơi/Bố thì ngủ sớm… bà ngồi
thâu đêm.
Và, căn
nhà như rộng thêm ra khi các em đi lấy chồng: Mấy gian
nhà lá mênh mông/Anh ân hận đã có lần đánh em.
Đó quả là những vần thơ ngập tràn cảm xúc
và tình thương yêu!
Với con gái anh có bài thơ “Viết cho con gái” với tựa đề “Cho con
gái Hải Yến yêu quý”. Với con trai anh có bài thơ “Rồi đến lúc làm cha con sẽ biết” với tựa đề “Cho con trai Mạnh Tuấn
yêu quý”. Đó chỉ là hai trong số rất nhiều thơ anh dành tặng các con. Bài thơ
nào cũng chan chứa tình yêu thương và nỗi niềm lo lắng. Với con trai là “Rồi đến lúc làm cha con sẽ biết”, ngay từ
nhan đề đã là lời nhắn nhủ, và những vần thơ tự do như những cung bậc cảm xúc
dâng trào trong lòng người cha rất mực thương yêu con cái, thương nhưng không
chiều chuộng, thương nhưng phải rèn giũa để mai sau con lớn nên người: Không phải cứ thương con cha chu cấp nhiều
tiền/sáng đi học /chiều về chơi điện tử/Không phải cứ thương là chiều con mọi
thứ/để con đi không biết giờ về.
Và, quan trọng hơn nữa, thương con là phải
giúp con tự đứng vững trên đôi chân của mình, mai sau này, đời có thể nhiều
phong ba, sóng gió, con vẫn mạnh mẽ, tự tin vững bước vào đời:
Không
có người cha nào thương con không thường trực nỗi lo
Nhưng
không phải vì lo mà không dám buông tay để con tự đứng
Với các con, anh chia đều tình yêu thương
nhưng khi làm thơ tặng con gái, như một lời nhắc nhủ riêng, chỉ bảo riêng và lo
lắng riêng thì nỗi lo (tín hiệu vàng của tình thương yêu sâu nặng) được nhắc
nhiều hơn. Điều đó cũng là hợp quy luật tình người, tình đời của người Việt Nam
truyền thống, con trai, nếu muốn có thể sống chung một mái nhà với cha mẹ cả đời,
con gái lớn phải lấy chồng: Rồi mai khăn
gói theo chồng/Rủi may nước mắt cậy trông nhà người
Lo
sau này con đi lấy chống có gặp được người tử tế, cuộc đời có suôn sẻ để con được
“Một sông, một bến, một đò” hay
không? Phận con gái, lúc bé trong vòng tay chở che của cha mẹ, khi lấy chồng
còn do duyên phận, “Ở chùa thì được thơm
hương, ở ao nhỡ đục bố thường lo xa” … Đúng là phận làm cha, làm mẹ, suốt đời
không hết nỗi lo, trong mắt cha mẹ, con cái lúc nào cũng nhỏ bé, cần được nâng
niu, cần được chở che “Một đời cha biết
bao giờ hết thương”. Cảm xúc nhân văn chỉ có được từ con người nhân văn,
trân trọng tình người, tình đời. Thương con gái bao nhiêu lại canh cánh nỗi niềm
lo lắng: Thương con nhiều lúc thở dài/Nhỏ
nhờ cha mẹ, lớn ngoài tầm tay/Mong cho phúc đức đặn đầy/Gái trai cũng một lòng
này chở che
Đọc thơ Nguyễn Hưng Hải, tôi muốn nói với
con trai, con gái của anh rằng, chỉ riêng việc các cháu được làm con của một
người cha có suy nghĩ trước sau, sâu sắc và nhân hậu như thế đã là phúc đức đặn đầy rồi đấy!
Qua
các câu thơ, bài thơ về bà, về mẹ, về vợ và con gái, thấy rất rõ tình yêu
thương chân thành, sự cảm thông sâu sắc với nỗi vất vả của đời người phụ nữ xưa
và nay. Phụ nữ xưa mang vẻ đẹp truyền thống cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu
khó, hết lòng phụng sự gia đình, hy sinh thân mình vì chồng vì con một cách tự
nguyện, coi đó là bổn phận, là trách nhiệm. Phụ nữ ngày nay, kế thừa truyền thống
xưa nhưng có nét đổi mới vì sống trong một thời đại khác, người vợ vẫn đảm đang
việc nhà nhưng còn phải lo việc nước (cơ quan, đoàn thể). Xã hội ngày nay, thời
buổi kinh tế thị trường, bên cạnh nét ưu việt là những tồn tại đáng lo ngại. Chẳng
thế mà mỗi ngày vợ đi làm là mỗi ngày thi sỹ lại lo lắng với tư cách của người
chồng đầy trách nhiệm. Vợ ra đường lo mưa ướt áo, lo nắng xơ mái tóc, lại lo nỗi
kẹt xe và rủi ro, bất trắc… chỉ đến khi
vợ về nhà mới an lòng.
Không
có điều kiện để đọc hết thơ Nguyễn Hưng Hải, chỉ điểm qua hai tập thơ Ban mai chóng mặt và Viết cho con gái, có thể thấy thơ của anh đã sử dụng khéo léo và
thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, sử dụng các hình thức liên tưởng,
so sánh, sử dụng tứ thơ, ngôn ngữ, chất liệu hình ảnh thơ dân gian với lối diễn
đạt giản dị, trong sáng và giàu sức biểu cảm.
Sở
hữu một giọng thơ đằm thắm, đôn hậu giầu chất dân gian, sau hơn 30 năm cầm bút,
Nguyễn Hưng Hải đã trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu
của thế hệ các nhà thơ trưởng thành sau năm 1975. Anh quan tâm tới nhiều đề tài
và mạch nguồn chủ đạo trong thơ anh vẫn là cảm xúc cội nguồn. Những năm gần đây,
Nguyễn Hưng Hải dành nhiều thời gian, tâm sức và trí tuệ để viết về Bác Hồ kính
yêu, viết về người lính và chiến tranh cách mạng. Nguyễn Hưng Hải đang ở tốp đầu
của dòng thơ thế sự. Và dù là thế sự hay trữ tình thì hình ảnh người phụ nữ bao
giờ cũng hiện lên trong thơ anh với một vẻ đẹp lung linh đầy nhân hậu, thẳm sâu cùng rất nhiều va đập, trăn trở và
day dứt.
Đ.N.T
Địa chỉ: Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét